Thống kê truy cập

Số lượt truy cập: 2.829.879
Tổng số Thành viên: 53
Số người đang xem:  467

Thần thông của Mahà Moggallàna

Đăng ngày: 04/05/2014 00:30
.

Trong bài pháp nói về những đệ tử có khả năng siêu phàm, đức Phật đã đề cập đến Mahà Moggallàna (Đại Mục Kiền Liên), như một bậc Thương thừa trong những kẻ có thần thông trên thế gian. (Theo Tăng Chi Bộ Kinh I,13=Anguttara Nikàya I,13).

Một hôm Mahà Moggallàna cùng với các học trò đi kinh hành gần nơi Tăng hội, đức Phật đang có mặt ở đó và còn nói rõ: "Dĩ nhiên cũng có những đệ tử khác đã được thần thông quí báu, nhưng mỗi người chỉ tuyệt diệu trên một phương diện. Chẳng hạn như Sa Môn Anuruddha và Tỳ Khưu Ni Sakulà đạt Thiên nhãn thông, thấy rõ đủ loại chúng sanh trong tam giới. Tỳ Khưu Sobhita và Tỳ Khưu Ni Bhadda Kapilàni thì có Túc mạng thông, biết được hàng ngàn kiếp trong quá khứ. Tỳ Khưu Sagalo có thể đi trong lửa, không bao giờ bị cháy. Ðệ tử Cùla Panthaka có thể bay trên không gian, đi thăm các tầng trời. Và đệ tử Pilinda thì độc đáo trong việc nghe các hàng chư Thiên nói chuyện (Thiên nhĩ thông)….

Nhưng Mahà Moggallàna thì xuất sắc nhất trên tất cả các phương diện ấy. Ông đã đạt được nhiều loại thần thông khác nhau, cao đẳng hơn các hàng đệ tử khác. Ngay cả Tỳ Khưu Ni Uppallavanna là một bậc pháp thuật nổi tiếng, cũng không vượt nổi thần thông của Mahà Moggallàna (Đại Mục Kiền Liên) vậy!" (Theo Tạp Bộ Kinh số 14-15= Saŋyutta Nikàya 14-15).

Ai đã từng nghiên cứu về những sức mạnh "siêu tâm lý" hay các bí mật thần học (loại tuy trừu tượng nhưng rất thực dụng), sẽ khám phá ra được giá trị bản kinh nói về thần thông của Mahà Moggallàna, và phải tin tưởng rằng ấy là một điều có thật!

Thế giới mà chúng ta gọi là vật chất, có thể tiếp nhận qua năm cảm quan (hay năm giác quan), đã được nhiều nhà Vật Lý học hiện nay cắt nghĩa, như là "Sự biểu hiện của nhiên lực" v.v...vốn chỉ là một phần rất nhỏ trong cái "sự thật vô biên". Sự thật vô biên ấy bao gồm tất cả mọi "Tĩnh Ðộng", từ cực tiểu đến cực đại, mà con người chỉ hiểu được một môi trường rất hạn hẹp, khó có thể thông thấu nổi những gì vượt giới hạn của mình.

Nghi ngờ chớ không dám quá quyết, để xác nhận hay phủ nhận, vì biết rằng nó nằm ngoài tầm tư tưởng thông thường của mình, rồi tạm dùng những từ ngữ như "phản vật chất", "tâm lý lực" hay "siêu nhiên" để mô tả, chính là con người bắt đầu cảm chứng những kỳ lạ, mà khoa học thực nghiệm không cắt nghĩa được. Vì chúng ta chỉ ý thức được một lãnh vực nhỏ hẹp, lãnh vực của thế giới "sinh động vật", nên chúng ta luôn luôn có khuynh hướng lấy những "kiến thức" của chuyển động giới hạn làm nguyên tắc tuyệt đối.

Nhưng vũ trụ đối với những bậc Thanh Tịnh Ðại Giác, hay đối với các Thánh Nhân, giải thoát khỏi mọi tầng lớp vật chất hóa hiện, là một vũ trụ to lớn khôn lường. Vũ trụ ấy vốn vừa độc lập với môi trường của chúng ta, vừa có thể tương quan linh nghiệm, nếu chúng ta đủ sức, đem cái "nội lực tự nhiên" của phàm tình, rèn luyện thành cái " đại lực siêu nhiên" của các bậc Thánh.

Ðây chính là chỗ gạch nối (hay còn gọi là mối liên hệ) giữa những huyền bí khác nhau, mà người ta gọi là phép lạ. Ðiều đáng tiếc là một khi những trình độ siêu phàm ấy biểu hiện như một thần thông có thật, thì người ta vì quá bị cầm tù trong tư tưởng hẹp hòi, không thể ý thức rằng, chính cái "sở năng hữu hạn" của mình không cho mình hiểu thấu các sự thật không thể chối cãi được.

Nhưng đối với các hàng siêu thế, như đức Phật hay ngài Mục Kiền chẳng hạn, khi đã tu luyện, phát triển những khả năng thần nghiệm xuất thế rôi, thì các ngài đã lọt vào trong những pháp hành vô cực, cao rộng hơn môi trường phàm tình rất nhiều, và với những cảm quan đã hoàn toàn tinh diệu, nhất là đã đạt được "Tứ Phần Nhận Thức" (Iddhipada), các Ngài sẽ thấy rõ cái chân lý Vô thượng, Vô lượng, phi không gian lẫn phi thời gian.

Ðối với các bậc này, viễn tượng hiểu biết thực nghiệm của họ, sẽ nằm trong lẫn ngoài vũ trụ, không thể đo lường được, vượt khỏi mọi lằn mức và biên giới.

Kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ) số 32 có ghi: Khi Sàrìputta hỏi Mahà Moggallàna: "Loại Sa Môn nào mà Tăng chúng (đang) hội họp nơi đây nên tán dương nhiều nhất?" Mahà Moggallàna trả lời rằng: "Theo quan điểm của ông, thì ấy là Sa Môn có trí tuệ luôn luôn tỏa sáng và có thể thảo luận cùng giảng giải một cách rành mạch mọi giáo lý (thậm thâm vi diệu) của đức Phật".

Nghĩa là kinh đã xác nhận Mahà Moggallàna (hay Đại Mục Kiền Liên) quả thật là người đủ khả năng nói pháp siêu hình.

Thật ra, những bài pháp giá trị, cả bề rộng lẫn bề sâu, là những bài pháp phải thoát ra từ cửa miệng của một người đã tu chứng đạt thần thông, vượt lên trên mọi lãnh vực vật chất và cảm quan. Sa Môn nào càng mở trí thức bằng những công phu siêu nhiên như thế, Sa Môn ấy càng có nhiều điều để nói về vô hình.

Nghĩa là hành giả khi tự mình đã chứng nghiệm trong diệu pháp giải thoát siêu phàm, họ sẽ có trí tuệ thông biện nhất, để làm bộc lộ sức mạnh của pháp bảo, và kích thích người khác. Những mẫu chuyện về mật pháp do Mahà Moggallàna thuyết ra như thế, đã được ghi trong Majjhima Nikàya (Trung Bộ Kinh số 15- 17), trong Anguttara Nikàya (Tăng Chi Bộ Kinh X, 84) và trong Saŋyutta Nikàya (Tạp B ộ Kinh 35, 202.44,7-8)

Bây giờ chúng ta thử quay lại vấn đề "Thần thông" của Mahà Moggallàna (Mục Kiên Liên), ghi trong kinh điển Phật giáo, dựa theo năng thức thể chất, thì sẽ thấy những loại sau:

1/ Tha tâm thông

Một lần nọ nhằm lễ Phát Lồ (Uposatha)*, đức Phật cùng Tăng chúng ngồi tĩnh tọa trọn cả đêm……

*Ngày phát-lồ bố-tát, tức là ngày kiểm soát lại giới hạnh. Có hai lần trong mỗi tháng, tức mồng một và ngày rằm. Hàng Phật Tử tại gia thường gọi đó là ngày "sám hối", còn các bậc xuất gia gọi ấy là ngày "xưng tội, tụng giới bổn". Lễ phát lồ sẽ không thành tựu nếu có một Tỳ Khưu dấu lỗi.

Khi bình minh ló dạng, đức Phật chỉ tuyên bố: "Tăng hội đêm nay không trong sạch". Ðại đức Mahà Moggallàna (Đại Mục Kiền Liên) lập tức dùng Tha Tâm Thông quan sát từ vị Tỳ Khưu này đến vị Tỳ Khưu khác, và tìm ra một tu sĩ tâm hoàn toàn bị ô uế. Ông liền đến trước mặt yêu cầu vị Tỳ khưu ấy ra khỏi Tăng hội. Nhưng đương sự không cứ ngồi yên….

Sau khi cảnh cáo đủ ba lần, Mahà Moggallàna mới dùng "Ðại Thủ" (bàn tay lớn) nhấc bổng Tỳ Khưu ấy lên, rồi đem để ra ngoài phòng hội. Ðoạn Mahà Moggallàna đóng cửa cẩn thận trước khi yêu cầu đức Phật tuyên đọc Giới bổn(°) (Patimokha Saŋvarasìla) (Theo Anguttara Nikàya=T ăng Chi Bộ Kinh, số VIII,20).

(°) Giới bổn là những điều răn cấm, gồm 227 điều, dành cho phẩm hạnh Ty Khưu (Bhikkhu). Giới bổn này còn gọi là "Biệt Biệt Giải Thoát Giới", chỉ được tuyên đọc sau khi cộng đồng tăng sự đả "xưng tội" đầy đủ, đã được "ân xá" hay đã được "hành phạt", và trở nên trong sạch.

Lần khác đức Phật có mặt trong cộng đồng 500 vị Tỳ Khưu, mà chỉ có Ngài mới biết tất cả là A La Hán. Khi Mahà Moggallàna từ xa đến, ông liền nhận ra các Thánh Tăng và lễ bái một cách kính cẩn.

Liền ấy, một trong số năm trăm vị A La Hán

đã đứng dậy ca ngợi Ðại đức Mahà Moggallàna, bằng những câu kệ (phỏng dịch thành thơ) như sau:

"Trong khe núi, tâm người hằng thanh tịnh,

Diệt tham, sân, phá tan chấp mê lầm.

Người xứng đáng cho Tăng đồ cung kính.

V ì thần thông, vì tuệ lực cao thâm.

Trong nháy mắt, người nhìn ra đạo hạnh.

Của thánh nhân, không còn chút bụi trần.

Tâm người sáng, như kim đài óng ánh,

Vì người đây là Tôn túc tuyệt luân!"

(Theo Saŋyutta Nikàya=Tạp Bộ Kinh số 8,10)



Ngoài ra, Tạp Bộ Kinh, số 52, 1-2 cũng còn một đoạn ghi về Tha Tâm Thông của Mahà Moggallàna như sau :"Khi ấy Ðại đức Anuruddha (A Nậu Lâu Đà) đang hành thiền tại một nơi vằng vẻ, cách rất xa. Nhưng vì muốn biết rõ hiệu lực của diệu pháp Niệm Xứ (Satipatthàna) có khả năng tiêu trừ đau khổ, đánh tan phiền não, tiến tới giải thoát hoàn toàn như thế nào, mà Mahà Moggallàna (Đại Mục Kiền Liên) đã dùng Tha Tâm Thông "bám sát" thiền cảnh của Anuruddha, rồi hiện ra trước mặt, yêu cầu Thiền Tăng ấy, mô tả chi tiết của phương pháp thực hành Niệm Xứ".



2/ Thiên nhĩ thông

Một tối nọ, khi Ðại đức Sàrìputta (Xá Lợi Phất) đến thăm Ðại đức Mahà Moggallàna (Đại Mục Kiền Liên), ông chợt thấy nét mặt của người đạo huynh này có một vẻ thanh tịnh lâng lâng. Ðại đức Sàrìputta liền hỏi Mahà Moggallàna xem phải chăng người đang tịnh tâm trong một cõi thiền cao siêu nào đó. Nhưng Mahà Moggallàna trả lời rằng: Tâm ông chỉ an trú ở cõi thiền thấp nhất. Còn nét mặt ông "trong suốt, hân hoan", là vì ông đang "lắng nghe" một bài pháp. Sàrìputta liền hỏi: "Sư huynh nghe pháp của ai vậy?", thì được trả lời: "Bần Tăng nghe pháp của đức Thế tôn".

Lúc ấy đức Phật đang ngụ tại thành Xá Vệ (Savatthi) rất xa kinh đô Vương Xá (Ràjagaha), tức là nơi mà Sàrìputta và Mahà Moggallàna đang có mặt. Ðại đức Sàrìputta (Xá Lợi Phất) liền hỏi : -Phải chăng Mahà Moggallàna đã "xuất hồn" đi nghe Phật thuyết pháp, hay đức Thế Tôn dùng Phật lực “đẩy âm thanh” đến bên cạnh Mahà Moggallàna để cho ông nghe?"

Mahà Moggallàna liền xác nhận rằng không phải ông xuất hồn đến gần Phật, cũng chẳng Phật đẩy âm thanh lại gần ông, mà ấy chỉ là "sự vận dụng của Thiên Nhãn Thông và Thiên Nhĩ Thông", khi cả hai giác quan này của ông lẫn của đức Phật, đều đã tinh luyện. Nghĩa là với hai thần thông ấy, đức Phật và Mahà Moggallàna tuy ở rất xa nhau, nhưng có thể nhìn thấy nhau, và đối đáp với nhau, thật rõ ràng như ở gần vậy.

Sau đó, Ðại đức Sàrìputta tự động tán dương rằng: "Khi đạt được những thần thông như thế, đức Phật hay Mahà Moggallàna có thể sống mãi đến trọn kiếp tái đất, nếu Phật hay Mahà Moggallàna muốn!". (Theo Saŋyutta Nikàya=Tạp Bộ Kinh số 21,3).

Ngoài ra, với "Thiên nhĩ thông" Mahà Moggallàna còn có thể “nghe được ngôn ngữ của phi thân, chư thiên, ma quỷ ..v.v. và có thể nhận rõ những tư thức của họ”. Chẳng hạn như có một lần, một ngạ quỷ đã báo cho ông biết để ngăn chận Ðề Bà Ðạt Ða (Devadatta), vị ác Tăng này định làm hại đức Phật. (Theo Kinh Culla Vagga, Tiểu phẩm, số VIII,2).(Devadatta)

3/ Thiên nhãn thông

Như đoạn trên vừa nói, Màhà Moggallàna đã dùng Thiên nhãn thông, để thấy được đức Phật, cách xa hàng trăm dặm (Theo Saŋyutta Nikàya 21,3).

Nhưng cũng còn ngững thuật sự sau đây:

"Lần nọ, Ðại đức Sàrìputta (Xá Lợi Phất) đang ngồi tham thiền gần chân núi, một quỷ Dạ Xoa (Yakkha) hung bạo, đã dùng toàn lực đánh lên đầu ông một cái như trời giáng, và nhanh như chớp. Ðại đức Mahà Moggallàna cũng đang bận hành thiên, chợt trông thấy nhưng không ngăn kịp. Sau đó hỏi: "Ðạo huynh Sàrìputta! Người bị quỷ Dạ Xoa đánh có đau không?"

Ðại đức Sàrìputta mỉm cười trả lời:

"Tôi chỉ cảm thấy có cái gì chạm nhẹ lên đầu". Tiếp theo Mahà Moggalàna liền tán dương oai lực của tâm an trụ. Còn Sàrìputta thì khen ngợi thần nhãn của Mahà Moggallàna, vì chính ông không tài nào trông thấy kịp hung thần vừa tấn công hình dáng như thế nào, vì y hành động nhanh như chớp. (Theo Kinh Udàna IV,4).

Một hôm, nhờ Thiên Nhãn Thông mà Mahà Moggallàna (Đại Mục Kiền Liên) tuy ở xa vẫn thấy được đức vua Pasenadi bị thảm bại trong một trận đánh với người Licchavi. Nhưng sau đó nhà vua đã tập hơp được tàn quân rồi phản công và chiến thắng kẻ thù. Khi Mahà Moggallàna thuật lại chuyện này, một số Tỳ Khưu vội kết tội ông nói điều không thật và khoe pháp "Bậc Cao Nhân", tức phạm vào một trong bốn đại tội gọi là Bất Cộng Trụ, phải bị mất phẩm hạnh Tỳ Khưu và bị trục xuất khỏi Giáo Hội.

Nhưng đức Phật liền dùng Thánh Tuệ để phán xét và phân giải rằng: "Này chư Tỳ Khưu! Mahà Moggallàna chỉ nói đúng những điều ông đã thấy, vì những chuyện ấy đã xảy ra (Theo Pàrajika IV-17, thuộc T ạng Luật).

Hơn thế nữa, Mahà Moggallàna (Đại Mục Kiền Liên) cũng nhìn thấy rất thường sự biểu hiện của luật Nhân Quả. Ông thấy nhân loại sinh tử ra sao. Do những hành động xấu xa (như làm hại đồng loại chẳng hạn) đã khiến họ tái sinh vào cảnh ngạ quỷ, chịu đau khổ như thế nào. Trong khi đó một số người khác, nhờ làm việc lành đã được sanh vào các cõi trời Dục giới, hay các cõi trời cao hơn ra sao….

Vì vậy, cứ mỗi lần thuyết pháp, Mahà Moggallàna (Đại Mục Kiền Liên) thường dùng những trường hợp như thế, để làm thí dụ chứng minh cho luật Nhân Quả. Thuật sự về Thiên Nhãn Thông này cũng tìm thấy rải rác trong kinh điển rất nhiều, không thể kể hết ra được.

Trong hai cuốn thuộc Tam Tạng Pàli nói về cảnh ngạ quỷ (Petavatthu) và các cõi trời Dục giới A Tu La (Vimànavatthu), có 9 trong số 51 bài kinh, do Mahà Moggallna thuyết, về những sự sinh diệt, do chính mắt ông trông thấy. Ðây chính là lý do mà hầu hết học giả Phật giáo đều kết luận rằng Mahà Moggallàna là vị Thánh Tăng duy nhất thấy biết được nhiều thế giới khác nhau ngoài cõi người, và thấu rõ mọi "biến hành" Nghiệp Quả (Kamma Vipàka) của chúng sanh.

Tuy thuật sự về Thiên Nhãn Thông (Dibbacakkhu hay Cakkhubhiññàna) của Mahà Moggallàna có quá nhiều, không thể kê khai hết được. Nhưng ít nhất xin kể vài chuyện trong kinh Saŋyutta Nikàya (Tạp A Hàm ) số 19, 1-21 và trong Pàràjika 9,15 như sau:

Lần nọ, Mahà Moggallàna ẩn tu trên đỉnh Linh Thứu Sơn, gần thành Vương Xá (Rajàgaha) cùng một Sa Môn tên Lakkhana (tức một trong số 1000 đạo sĩ Bà La Môn đã quy y Phật giáo cùng với Uruvela Kassapa).

Một buổi sáng nọ, khi hai vị Sa Môn xuống núi khất thực trong thành phố, Mahà Moggallàna (Đại Mục Kiền Liên) chợt mỉm cười khi đi qua một đoạn đường. Sa Môn Lakkhana thấy lạ bèn hỏi lý do thì Mahà Moggallàna chỉ trả lời vỏn vẹn rằng: "Bây giờ chưa phải là lúc bần đạo có thể nói cho sư huynh nghe! Khi gặp đức Bổn Sư, bần Tăng sẽ nói cho Sư huynh nghe cũng không muộn!"

Sau đó, khi gặp đức Phật, Sa Môn Lakkhana liền nhắc lại câu hỏi này, thì được Mahà Moggallàna trả lời: "Lúc ấy bần Tăng thấy những ngạ quỷ đói rách, chạy loạn trên không, sau lưng chúng có những luồng ác khí, như phiền não, hối hận, đau đớn đuổi bắt!".

Ðức Phật liền xác nhận "Ấy là một sự thật". Ngài còn nói thêm: "Sở dĩ Như Lai ít khi đề cập đến chuyện ngạ quỉ khốn khổ, là vì phàm nhân không thể nào tin được!".

Rồi đức Phật dùng "Thông Thiên Tuệ" (Dibbañàna) phân tích: "Loài ngạ quỉ vốn kiếp trước xem thường phạm hạnh, chế giễu những kẻ chăm lo tu hành, nên kiếp này thèm khát phúc đức. Mỗi khi chúng thấy một bậc chân tu đi ngang, là chúng lại gần để tinh thần bớt khổ não".

Phật kết luận: "Bọn ngạ quỉ biết Mahà Moggallàna có nhiều thần thông, muốn cầu ông ta giải cứu, nhưng vì nghiệp ác cuả chúng quá dày, không mở miệng ra được, nên chúng cứ chạy quanh để kích thích lòng từ bi của Mahà Moggallàna (Mục Kiền Liên) đấy!"



4/ Di hành thông (hay Di Thân Pháp).

Ðây chính là loại thần thông mà những chúng sanh nào mang sự sống bằng vật chất phải cần dùng nhất.

Kinh chép: "Chỉ dễ dàng như một người co cánh tay vào hay duỗi cánh tay ra, và nhanh chóng như thế, thì Mahà Moggallàna cũng có thể khởi hành, với xác thân của mình, từ cõi người, rồi xuất hiện trên cõi trời trong khoảnh khắc".

Ðại đức Mahà Moggallàna (Mục Kiền Liên) đã sử dụng thần thông ấy nhiều lần, để vừa đi thuyết pháp cho những thiên chúng ở các cõi trời nghe, vừa quay về trần gian lo việc Giáo Hội. Một trong những kỳ công ấy, là Mahà Moggallàna đã giảng đạo đến chư Thiên, ở tầng trời thứ ba mươi ba (Tàvatimsa: Đạo Lợi), giúp họ phần lớn nhập vào Thánh Lưu, và nhắc nhở luôn cả vua trời Ðế Thích (Sakka), xem vua còn tin tưởng vào giáo lý giải thoát của chư Phật hay không (theo Majjhima Nikàya: Trung Bộ Kinh số 37).

Theo thuật sự Jàkata số 483E thì khi Phật lên cung trời Ðao Lợi thuyết pháp ròng rã trong vòng ba tháng, để độ "Phật Mẫu", Mahà Moggallàna đã làm vị Tông Ðồ duy nhất, lên thông báo mọi tin tức Giáo Hội ở thế gian đến đức Phật, và xin chỉ thị của ngài.

Trong khi "du hành" làm Phật sự như thế Mahà Moggallàna (Đại Mục Kiền Liên) không phải chỉ "ghé thăm" các chư Thiên ở cõi trời Dục Giới, mà Ngài còn lên cả đến các cung trời Sắc Giới lẫn Vô Sắc Giới nữa. Khi Mahà Moggallàna xuất hiện, các Phạm Thiên vốn không tin có một đạo sĩ nào đủ khả năng lên tới cảnh trời của họ bèn chất vấn, mới hay đó là thần thông của Sa Môn Maggallàna, đại đệ tử Phật. Từ đó, các Ðại Phạm Thiên không dám dễ duôi cho rằng "họ là những vị trời bất diệt". (Theo Kinh Tạp Bộ, Saŋyutta Nikàya, số 6,5).

Ðặt biệt là Mahà Moggallàna đã tìm ra được một vị Phạm Thiên tên là Tissa, kẻ trước đó không bao lâu chính là một Tỳ Khưu đệ tử Phật, đã viên tịch và sinh vào cõi trời này. Nhờ nghe được Pháp bảo của Mahà Moggallàna mà Phạm Thiên Tissa đã chứng quả giải thoát ngay sau đó. (Theo Anguttara Nikàya:Tăng Chi Bộ Kinh, số IV,34-VII 530.)

5/ Phổ lực thông

Ðối với những vật chất hữu hình (hay vật chất vô tính) dù có trọng lượng và cấu lực vững chắc đến đâu, Mahà Moggallàna cũng có thể lay chuyển dễ dàng.

Lần nọ, nhân lúc một nhóm Tỳ Khưu ngụ tại một tu viện, xem thường các bậc Thánh Tăng và dễ duôi phận sự tu hành, cứ bận tâm tập luyện thân thể cho được cường tráng. Ðức Thế Tôn hay chuyện này, hiểu rõ lòng tin sức mạnh vật chất thái quá của họ, bèn bảo Mahà Moggallàna nên sử dụng thần thông để cảnh cáo.

Mahà Moggallàna vâng lời Phật dạy, chỉ dùng một ngón chân ấn nhẹ, làm rung chuyển nhiều tòa nhà, khiến cho toàn thể tu viện mệnh danh là "Lãnh Vực Thiền Ðường Migàra", như trải qua một cơn đông đất. Nhìn thấy thần lực phi thường của Mahà Moggallàna như thế, toàn thể Tỳ Khưu từ đó không dám dễ duôi, bắt đầu kính sợ đức Phật và các hàng Thánh Tăng .

Nhân đó, đức Thế Tôn đã giảng giải về bốn yếu tố tạo nên thần lực (Iddhipada) và chỉ có Mahà Moggallàna mới hội đủ bốn yếu tố này. (Theo Kinh Saŋyutta Nikàya, Tạp Bộ Kinh số 51, 14 và Jàtaka số 299E).

Trong Majjhima Nikàya (Trung Bộ Kinh số 37) cũng thấy kể rằng: "Khi Mahà Moggallàna (Đại Mục Kiền Liên) đến thăn vua trời Ðế Thích (Sakka) tại thiên giới, rồi nhận ra rằng vị vua trời này đang bắt đầu khởi niệm "dục mạng", tâm tự hào ngã chấp vào khoái lạc trong những hạnh phúc tiên cảnh, quên hết chân lý giải thoát. Mahà Moggallàna liền sử dụng Phổ Lục Công làm lay động nhẹ ngôi đền, tên là "Bất Diệt Cung" của Ðế Thích ở, khiến cho Ðế Thích giật mình hoảng sợ. Sau đó, Ðế Thích mới từ bỏ ngã mạn, và lắng nghe vị Thánh Tăng nhắc lại pháp tiêu trừ tham ái, mà ông đã được Phật dạy trong một thiên niên kiếp trước. Pháp ấy cũng là pháp Phật đã dạy đến Mahà moggallàna (Đại Mục Kiền Liên) để tiến lên quả vị giải thoát.

Lần khác, khi đức Phật còn tại tiền, có một nạn đói, đã xảy ra ở vùng đức Phật cùng Tăng chúng đang ngụ. Chư Tăng đi trì bình chẳng đủ thực phẩm. Vì vậy, Mahà Moggallàna liền yêu cầu đức Thế Tôn, cho phép ông đảo ngược lớp mặt đất, vì có những chất nằm trong lòng đất tự phô bày, và con người có thể ăn được,

Nhưng đức Phật đã bảo Mahà Moggallàna (Đại Mục Kiền Liên) không nên làm vậy, vì sẽ gây sự hủy hoại sinh mạng của một số lớn sinh vật sống trong lòng đất. Hơn nữa, nạn đói cũng là một ác quả phải trả của một số người không thể tránh được.

Ðại đức Mahà Moggallàna liền nêu lên một giải pháp khác: Ông có thể dùng thần thông để mở ra một con đường rất ngắn đến xứ Uttara Kuru (khá sung túc và cách đó rất xa ) để chư tăng có thể đi khất thực.

Lần thứ hai, đức Phật cũng bác bỏ và dạy rằng: "Nạn đói không thể làm hại những Sa Môn đầy đủ đạo hạnh! Dù cho các Sa Môn ấy không có một chút thần thông!" (Theo Kinh Pàràjika I,2). Ðây là trường hợp duy nhất mà đức Phật đã từ chối lời đề nghị của Mahà Moggallàna (Đại Mục Kiền Liên).

Ngoài ra, Mahà Moggallàna cũng có thần thông đem được bất cứ vật gì, ở bất cứ nơi nào trên thế giới, đến chỗ mình muốn. Chẳng hạn như trong kinh ghi:"Khi Sàrìputta bị bệnh, ông Mahà moggallàna đã dùng thần thông, lấy cuốn sen trên đỉnh núi Hy Mã Lạp Sơn về làm thuốc cho vị đạo huynh này". (Theo Mahà Vagga : Đại Phẩm VI, 20, và Culla Vagga : Tiểu Phẩm V, 34).

Chỗ khác, kinh Jàtaka số 78E còn nói : "Ðại đức Mahà Moggallàna trong chốc lát, đã lấy về một chồi cây Bồ Đề, cách xa hàng trăm dặm, cho ông bá hộ Cấp Cô Ðộc (Anàthapindika) trồng trong khuôn viên Kỳ Viên Tự"

Nhưng theo một thuật sự khác về vấn đề tranh tài, thì Mahà Moggallàna (Đại Mục Kiền Liên) đã từ chối.

Số là thuở ấy, những tín đồ ngoại đạo, và một số những trưởng giả trong thành phố, đã tổ chức một cuộc biểu dương thần thông. Họ treo giải thưởng là một bình bát bằng vàng, cột ở đỉnh trụ rất cao, mà đạo sĩ hay Sa Môn nào lấy được tức là người vô địch. Bát ấy thuộc về họ.

Khi Tỳ Khưu Pindola yêu cầu Mahà Moggallàna "Xử dụng thần thông để cho quần chúng khâm phục oai lực của Tăng bảo", thì Mahà Moggallàna (Đại Mục Kiền Liên) đã từ chối. Ông nói rằng:

- "Sư đệ có thể làm việc đó!"

Và khi Pindola lấy được bát quí, khiến cho quần chúng kính nể các đệ tử của đức Cồ Ðàm, thì đức Thế Tôn đã khiến trách ông ấy. Phật dạy: "Này Pindola! Từ nay về sau, ông chớ biểu diễn thần thông, vì mục đích ham danh như thế!" (Theo Culla Vagga, Tiểu Phẩm V,8).


| Chia sẻ |
THẢO LUẬN  
Chưa có thảo luận nào

Tin cùng loại cũ hơn