Thống kê truy cập

Số lượt truy cập: 3.091.149
Tổng số Thành viên: 53
Số người đang xem:  67

Du phương tầm đạo

Đăng ngày: 04/05/2014 00:21
.

Một trùng hợp lạ lùng, là khi ấy Thái tử Sĩ Ðạt Ta (Siddhattha) cũng vâng lời vua cha cưới vợ, tức Ngài bước sang giai đoạn thứ hai, của kiếp chót làm người.

Kolita và Upatissa bỏ lại sau lưng sự hưởng thụ thế gian, để bắt đầu cuộc đời du sĩ, thanh tịnh nội tâm và tìm đạo giải thoát. Cùng với nhóm tùy tùng, họ đã mở ra một giai đoạn đem mình tu luyện dưới sự chỉ dạy, của một số Tôn sư. Tương tư như đức Bồ Tát đã làm sau đó với năm vị Kiều Trần Như (Pañca Kondañña), trước khi Ngài đắc đạo thành Phật.

Thuở ấy ở cổ Ấn Ðộ, có nhiều giáo chủ nêu lên nhiều triết học khác nhau. Một số chủ trương hẳn thuyết “Vô Ðạo Ðức” (đạo đức là sự vô ích). Một số khác đề cao thuyết Ðịnh Mệnh. Và một số khác truyền bá tư tưởng Duy Vật.

Ðôi bạn Kolita và Upatissa nhận thấy sự sai lầm của những giáo thuyết như thế, nên chẳng bao lâu đã không màng để tâm nghiên cứu nữa.

Tuy nhiên, tại Vương Xá thành (Ràjagaha), có một Giáo chủ tương đối đáng học hỏi, tên là Sañjaya. Theo lịch sử Ấn Ðộ, ông chính là Sañjaya Belatthaputta, một tôn sư cũng có ghi trong kinh điển Phật giáo, như một trong sáu vị Giáo chủ lớn nhất đương thời. Sáu giáo chủ ấy còn gọi là Lục Sư. (-Ngoại trừ đức Phật).

Ðôi bạn Kolita và Upatissa đã dẫn hai nhóm tùy tùng đến thụ giáo với ông, và đã làm cho danh tiếng của Sañjaya trở thành vang dội.

Toàn bộ triết học của Sañjaya là gì, sử sách và kinh điển không ghi đầy đủ. Khi khảo cứu, chúng ta chỉ thấy một số bình phẩm, về tư tưởng căn bản Sañjaya được nhắc lại, mà đối với trí thức Ấn Ðộ thuở bấy giờ, có thể xem là có “giá trị”, để giúp họ thấu hiểu trọng tâm lý thuyết.

Theo kinh Phật, không như các giáo chủ khác, những người đã nêu lên một số lý thuyết và tín điều nhất định, về một số vấn đề làm tiêu chuẩn, Sañjaya chỉ giảng dạy cái mà ông gọi là "Những biện chứng sâu xa nhất" bằng một phương pháp đáp ứng khao khát trí thức hơn hơn.

Ông dựa vào bốn câu hỏi:

1/ Có một thế giới khác, ngoài cái thế gian phàm tình, cụ thể này hay không?

2/ Sau khi tan rã xác thân, một người có thể tự động sinh ra ở một kiếp mới, nhờ tâm hồn trong sạch không?

3/ Bất cứ hành động nào, xấu hay tốt mà con người đã làm trong kiếp sống này, có mang lại hậu quả gì trong kiếp sau không? Nếu có thì sự thưởng phạt sẽ như thế nào, và số phận của những người ấy sẽ tiếp tục ra sao?

4/ Một bậc đã hoàn toàn trong sạch, sau khi chết sẽ trở thành cái gì? Làm sao có thể chứng minh được trạng thái vĩnh viễn của một bậc hoàn toàn trong sạch?

Hễ khi một trong những câu hỏi như thế được các tư tưởng gia cổ Ấn Ðộ đặt ra là Sañjaya liền đáp lại bằng một trong bốn cách trả lời sau đây:

-Xác nhận.

- Phủ nhận.

- Một phần xác nhận, một phần phủ nhận.

- Không xác nhận, cũng không phủ nhận.

Tuy nhiên, Giáo chủ Sañjaya còn “khôn khéo” bổ túc thêm rằng: "Ðối với những câu hỏi như thế, một trong bốn cách trả lời của ông, không có cách nào được xem là giải pháp xứng đáng, vì những câu hỏi như vậy, là những câu hỏi hàm chứa mâu thuẫn hai chiều, không thể giải quyết được” (Nhị nguyên mâu thuẫn!). “Do đó, tốt hơn một học giả chớ nên phán xét về những vấn đề như thế".

Ở đây chúng ta có thể nhớ lại rằng, bốn luận cứ ngụy biện "Tương ưng nghịch lý" (hay Nhị nguyên mâu thuẫn) tìm thấy trong Kinh Ðiển Pàlì (Majjhima Nikàya: Trung Bộ kinh, đoạn số 63), chỉ có luận cứ thứ tư là có vẻ tương đồng với lý thuyết “vòng vo” của Sañjaya, -nghĩa là luận cứ có liên quan đến "Những gì sẽ xảy ra cho một đấng Toàn Thiện sau khi chết".

Trong khi những Giáo chủ, đạo sĩ khác bênh vực một trong bốn cách ngụy biện duy lý trên, như là một giải pháp của trường phái họ (gồm đúng, không đúng, đúng và không đúng, vừa đúng vừa không đúng) thì Sañjaya chủ trương “nói vòng vo huề vốn”, không để mình vướng vào bất cứ định đề nào trong bốn luận cứ đó!

Ðặc biệt là ông không để mình bị mắc kẹt, trong sự xác nhận không thể chứng minh được, và tránh các lý thuyết có tính cách tín điều. Chẳng hạn như có một số Giáo chủ dùng thực nghiệm xác nhận rằng, ngoài thế giới vật chất, không có thế giới vô hình, không có Thiên chúng, không có định luật nhân quả, không có sự tái sanh sau khi chết….

-Nhờ thái độ đó mà ông Sañjaya trở thành khác hẳn những Giáo chủ đương thời !

Nói cách khác là ông chủ trương rằng: Ðối với những vấn đề không thể thông giải, một Giáo chủ nên giữ thái độ "Tránh né một cách vô tư" và đừng bao giờ vô ý để cho tính thiên về xác nhận hay bác bỏ (dù trên lý thuyết) trở thành tư kiến của trường phái ông.

Do đó, chúng ta có thể thấy rằng Sañjaya có vẻ vững vàng trên phương diện ngụy biện, và dường như ông muốn "chuyển hoá" cái thuyết "Tư Duy Nghiệm Chứng" thành ra thuyết "Bất Khả Tri Luận".

Nghĩa là ông giống như những nhà “cụ thể học” ngày nay, biện giải rằng những gì không “nhìn thấy” thì nói sao cũng được, vì không có “căn cứ” để kết luận là thật hay giả. -Hay điều ông thuyết ra biểu lộ tư tuởng "Hiện Sinh Biện Chứng" hơn là "Duy Lý Biện Chứng".

Vua Bình Sa (Bimbisàra) của Vương quốc Ma Kiệt Ðà (Magadha) thuở ấy có lần đã thuật lại với đức Phật cuộc đàm thoại giữa nhà vua với đạo sĩ Sañjaya như sau:

"Một hôm khi trẫm đến thăm Giáo chủ Sañjaya, thuộc giòng họ Belattha và hỏi: Thưa Giáo chủ Ngài có thể kể cho trẫm nghe một quả phúc nhãn tiền của đời sống đạo hạnh ở kiếp này không? -Sañjaya liền trả lời vòng vo rằng: Tâu Ðại Vương, như Ðại Vương đã biết, đối với câu hỏi phải chăng có một thế giới khác ngoài thế gian này không, tôi đã trả lời nếu tôi nghĩ là có thì tôi nói có. Nhưng tôi đã không nói như thế, nghĩa là tôi nghĩ không thể phủ nhận và ấy là sự thật. Tôi lại không phủ nhận nó nữa. Tóm lại, là tôi vẫn không nói có hay không có một thế giới khác ngoài thế giới này, thì bây giờ câu hỏi của Ðại Vương, về quả phúc nhãn tiền của một Ðạo sĩ, hay kết quả của những hành động xấu và tốt trong kiếp này, hoặc đấng Toàn Thiện sẽ trở thành cái gì sau khi chết, trong bất cứ phần nào của câu hỏi, tôi cũng sẽ trả lời như trước!...

-Tức là, Bạch đức Thế Tôn, Ðạo sĩ Sañjaya thuộc giòng Belattha trước câu hỏi về quả phúc nhãn tiền, và lợi ích của sự tu hành của trẫm, đã tìm mọi cách nói quanh co, không trả lời rõ ràng vậy. (-Theo Dìgha Nikàya: Trường Bộ kinh, số II, do T. W. Rhys Davids dịch).

 

Nhưng Kolita và Upatissa, thuở ấy chưa tìm ra một Tôn sư nào giỏi hơn, nên phải để ý đến Sañjaya, vì nghĩ rằng ít lắm “quan điểm triết học” của ông cũng có một sắc thái đáng nghe hơn, vì “khi không nắm vững thì khôn khéo biện luận cho trôi, chứ đừng cường điệu như các giáo chủ khác”, nên họ đến nhận ông làm thầy.

Sau một thời gian ngắn, cả hai nhận thấy Sañjaya sẽ chẳng bao giờ đáp ứng được ý nguyện của họ, là tìm ra một phương pháp chữa trị đau khổ và phiền não.

Ngoài ra, đôi bạn còn linh cảm chắc chắn phải có một sự sống khác ngoài kiếp sống trần gian này, phải có những chúng sinh chỉ có linh thức mà không có thể xác (như Chư Thiên chẳng hạn). Càng đi sâu vào thế giới vô hình, sự hiểu biết của họ dường như vượt khỏi tầm học thức của vị Giáo chủ thuộc trường phái hoài nghi trong niềm tin và ngụy biện ấy.

Rồi một hôm nọ, Sañjaya bỗng tuyên bố rằng “những đệ tử ưu tú nhất của ông đã tái sinh lên cõi trời này, hay cõi trời nọ”. (Saŋyutta Nikàya 44,9 : Tạp Bộ Kinh, đoạn 44,9). Ðiều này hoàn toàn mâu thuẫn với tiêu chuẩn hoài nghi của ông.

Vì vậy, một hôm đôi bạn Kolita và Upatissa đến gần Sañjaya và hỏi ông rằng: "Phải chăng ông còn những giáo thuyết bí mật nào chưa dạy, khác với những gì mà cả hai đã học?". Sañjaya trả lời: "Chỉ có thế và hai đệ tử đã học hết giáo thuyết của ta rồi!".

Nghe thế, đôi bạn tầm đạo không thể làm gì khác hơn, là quyết định từ giã Sañjaya, tiếp tục tìm con đường chân lý. Ðôi thanh niên nghĩ rằng vì mong cầu sự giải thoát, mà họ mới thoát ly gia đình, chứ mục đích của họ không phải là để học hỏi nghệ thuật né tránh những vấn đề "Bất khả tri luận" một cách vô ích.

Thế là lần thứ hai, đôi bạn lại phải tái diễn cuộc đời du phương tìm đạo. Lần này họ bất kể thời gian, lặn lội xuyên qua cả nước Ấn Ðộ, từ Bắc tới Nam, từ Ðông sang Tây. Họ sẵn sàng chịu đựng mọi cái ngột ngạt của bụi đường nắng chói, và mọi cái nóng bức như thiêu như đốt, của một quê hương nhiệt đới. Họ dầm mưa dãi nắng và nhiều khi đã lớn tiếng tuyên bố với những khách bộ hành, lý do tìm đạo của họ, rằng:

"Chúng ta là nạn nhân của sinh già bệnh chết, nạn nhân của buồn rầu, than tiếc, đau khổ, phiền não và tuyệt vọng. Chúng ta là nạn nhân của trầm luân. Nếu chúng ta kiên trì tìm Ðạo Giải Thoát, thì chắc chắn cuối cùng chúng ta cũng sẽ tìm được vị thầy khám phá ra nguyên nhân của đau khổ!" (Theo Majjhima Nikàya No 28: Trung Bộ kinh 28).

Dĩ nhiên là trong khi du phương tầm đạo như vậy, Kolita và Upatissa đã gặp nhiều đạo sĩ Bà La Môn, là những nhà "thông thái" nổi tiếng. Đôi thanh niên tầm đạo đã không tránh khỏi nhiều cuộc thảo luận sôi nổi, về triết học, về tôn giáo, về thiên giới, về địa ngục, về ý nghĩa của sự sống, và về con đường cứu rỗi. Nhưng nhờ trí thông minh hiếm có, cộng với nghệ thuật biện luận "bất khả tri nghiệm" học được của Sañjaya, đôi bạn Kolita và Upatissa đã mau chóng nhận ra sự vô lý trong cái học mơ hồ của những nhà "thông thái" ấy. -Thế là không có một giáo chủ nào đủ khả năng, giải thông những câu hỏi sâu xa của họ, và ngược lại, đôi thanh niên này lại có thể ứng đối một cách dễ dàng, khi bị họ chất vấn.

Không sử sách nào nói rõ là Kolita và Upatissa, sau Sañjaya đã đi thụ giaó với ai, nhưng chắc chắn đôi thanh niên ấy làm sao tránh khỏi gặp những nhà thần học, như Tiên tri Bàvàri, một người đã đắc được thần lực rất cao, hoặc gặp hai vị Thiền sư thuộc trường phái "Siêu Thế Vô Biên Luận". Chính đức Bồ Tát cũng đã một thời gian làm môn đệ trường phái này. Theo những sử liệu liên quan đến đời sống của họ, thì đôi bạn Kolita và Upatissa đã không gặt hái được gì nhiều, với các danh sư này trong việc tu thiền, hướng đến chứng ngộ giải thoát, giống như đức Bồ Tát đã từng đạt được, khi làm môn đệ thiền phái ấy.

Chúng ta thử tìm hiểu sâu hơn vấn đề nầy. Có hai khuynh hướng cho kẻ tầm đạo hay kẻ tu tập. Một là đạt được an ổn nội tâm hay thanh tịnh tinh thần, bằng cách tiến sâu vào Thiền định (Samàdhi), hai là tìm kiếm một giáo thuyết rõ ràng, thông giải được mọi khía cạnh của sự sống, bao gồm cả giá trị hay ý nghĩa của Thiền định.

Hầu hết những kẻ đạt được an trụ tâm hồn bằng Thiền định, thường bị dừng lại ở đó, không thể tiến mạnh hơn đến cứu cánh. Bởi họ một khi đã lọt vào trong sự vi diệu của quả thiền, họ hằng lầm tưởng mình đã đến đích giải thoát. Và dù quả thiền có cao siêu đến đâu, "Lạc Trụ Hữu Biên" ấy cũng chỉ kéo dài tới một số Thiên niên kiếp mà thôi (đối với loài người thì gọi là đại kiếp), sau đó "Ðịnh phúc" cũng phải tận, trả thiền tâm của kẻ đắc định trở lại trong vòng sinh tử như trước.

Trong tiền kiếp, điều này hẳn đã xảy ra nhiêu lần đến Bồ Tát (tiền thân Phật Thích Ca), cũng như đến Kolita và Upatissa. Mặc dù trọn kiếp này, đôi bạn ấy không nhớ lại những hưởng thụ thiền lạc như thế, nhưng dường như trực giác vẫn khiến họ hiểu rằng, thiền định (ngoài Phật giáo) và quả thiền, không phải là cái đích cuối cùng, mà chỉ là một sự giải thoát tạm thời những chi phối của phiền não, đau khổ triền miên mà thôi.

Bởi vậy, nguyện vọng trên hết của họ, là phải tìm đấng Giải thoát, chỉ rõ cái "Nguyên nhân nối tiếp sinh diệt", chỉ rõ “Tại sao Tâm và Vật bị cột chặt với nhau, trong cái vòng sinh tử phức tạp này”. Nhưng sự đạt mục đích ấy không thể thực hiện được, nếu không gặp một vị Phật, một đấng Giác Ngộ. Cho nên họ phải tiếp tục hành trình, tiếp tục cho đến khi nào, bước chân tìm đạo dẫn dắt họ đến một đấng Phật Tổ.

Vào những kiếp xa xưa, khi không có đức Phật xuất hiện, cứu cánh tầm đạo giải thoát của họ thường bất thành, vì họ chỉ tối đa tìm ra một pháp môn thiền định. Rồi họ tu tập, đắc thiền, sanh vào nhàn cảnh hưởng lạc, để sau cùng không còn nhớ gì cả. Nhưng động cơ tầm đạo của họ trong kiếp này, vốn là "tiếng gọi tâm linh", chính họ cũng không cắt nghĩa nổi, đã khiến họ không thể ngồi yên, trước khi gặp đức Phật.

Ðồng thời khi ấy đức Phật lại bắt đầu lăn bánh xe Pháp (Dhammacakkappavattana) để cứu độ chúng sanh. Và công trình tầm đạo của Kolita và Upatissa phải chuyển sang giai đoạn chót.

Ðiểm cần nhấn mạnh ở đây là giả sử trong khi ấy, đức Bồ Tát chưa thành Phật, đang tinh tấn thực hành đại nguyện, dùng thiền định đã từng thuần thục thuở thiếu thời, để tiến về cánh cửa giác ngộ, thì đôi bạn Kolita và Upatissa, cũng không thể nhờ thiền định ngoài Phật giáo, tìm ra nấc thang giải thoát cao hơn. Bởi họ chưa bao giờ trải qua cao điểm tu thiền, như đức Phật đã từng bước qua, và họ cũng không có tiềm lực tự mình giải thoát như đức Phật.

Ðây là chướng ngại vi tế nhất, đối với các hàng Thinh Văn giác. Chúng ta có thể gọi chướng ngại này là "Ranh giới mong manh giữa phỉ lạc và đau khổ", hay ấy là "Hào quang của cái bức tường an trụ che khuất cánh cửa giải thoát".

Ngoại trừ bậc Toàn Giác, ai đến gần hào quang đầy phỉ lạc ấy cũng dừng lại. Như người bao năm tháng trôi giạt lang thang, chợt đã tìm lại được ngôi nhà thật, nhưng chỉ ngồi trước cửa, cảm thấy sung sướng một thời gian rồi quay lưng bỏ đi. Ðáng lẽ hành giả phải "vẹt hào quang", bước vào trong ngôi nhà giải thoát ấy, thì họ lại làm cái việc "Nghỉ chân của những kẻ qua đường". Sau đó họ lại "khởi hành" vào một hướng luân hồi khác.

Nhưng trường hợp của Kolita và Upatissa thì khác. Ðôi Thinh Văn Giác tương lai này lúc đó như hai tấm gương phản chiếu. Họ chợt thấy họ phải nhờ đến một vị Phật. Vì chỉ có bậc Giác Ngộ mới có thể chỉ cho họ cách bước qua khỏi cái hào quang, bước ra khỏi cái vòng lẩn quẩn, cái vòng chúa cả phỉ lạc lẫn vướng mắc, đưa đến khổ đau, mà trong quá khứ họ đã nhiều lần gần đến điểm chót, rồi lại bỏ đi !

 

NGUỒN ĐỌC THÊM:http://phatgiaovnn.com/upload1/modules.php?name=Library&op=View&id=3372#ixzz30frSMIZ6

| Chia sẻ |
THẢO LUẬN  
Chưa có thảo luận nào

Tin cùng loại cũ hơn