Thống kê truy cập

Số lượt truy cập: 3.091.003
Tổng số Thành viên: 53
Số người đang xem:  32

Tìm ra chân lý

Đăng ngày: 04/05/2014 00:22
.
Lúc ấy Kolita và Upatissa hoàn toàn không biết rằng có đức Phật. Họ tự nhiên từ bỏ đời sống của hai đạo sĩ du phương và quay về quê hương Ma Kiệt Ðà (Magadha), sau khoảng hai mươi năm ròng rã lang thang tìm đạo.

Ðiều này xảy ra không lâu, sau khi đức Phật bắt đầu Chuyển Pháp Luân (thuyết pháp lần thứ nhất), tại vườn Lộc Giã (Isipatana Migadàya), ở Ba La Nại (Vàrànasì). Ngày nay gọi là Sarnath hay Bénares.

Tuy nhiên, đôi bạn Kolita và Upatissa vẫn chưa từ bỏ hy vọng tìm ra đấng giải thoát. Sau khi trở lại quê nhà, họ quyết định chia tay nhau, mỗi người đi một hướng, hy vọng “gấp đôi” sự tầm đạo, may ra sớm có kết quả. Cả hai cùng ước hẹn với nhau mạnh ai nấy tìm. Và người nào tìm ra con đường bất tử trước, sẽ lập tức thông báo cho người kia.

Khi ấy cả Kolita và Upatissa đã khoảng bốn mươi tuổi, và nhằm lúc đức Phật vừa cho phép đoàn đệ tử đầu tiên đi truyền bá chân lý. Ðoàn Như Lai Sứ Giả ấy, gồm sáu mươi vị, tất cả là những Thánh Nhân. Mục đích đoàn Thánh Tăng này là đi ban bố giáo lý an lành và tiến hóa trong nhân loại. Còn đức phật, Ngài đích thân đến thành Vương Xá (Ràjagaha), để tiếp độ vị vua nước Ma Kiệt Ðà (Magadha) tên là Bimbisàra (Bình Sa Vương). Và Ngài nhận lãnh ngôi chùa Trúc Lâm (Veluvana Vihàra) do vua dâng cúng.

Phật đang có mặt tại ngôi chùa này thì Kolita và Upatissa vừa quay về thành Vương Xá (Ràjagaha), tạm thời ngụ trong tu viện của Sañjaya. Một hôm Upatissa đã ra đường phố, còn Kolita thì ở nhà. Chợt chàng thấy người bạn thân trở về với nét mặt vô cùng hớn hở, mà từ trước đến giờ chưa bao giờ nhìn thấy. Phong độ của Upatissa lúc ấy hoàn toàn khác hẳn, trông trang nghiêm và rạng rỡ. Kolita lập tức hỏi: -Này bạn! Vẻ mặt của bạn thật thỏa mãn, dung nghi của bạn rất trong sáng, phải chăng bạn đã tìm ra con đường Giải thoát?

Upatissa trả lời:

- Vâng, đúng như thế, thưa bạn! Pháp giải thoát khỏi sự chết đã được khám phá.

Rồi Upatissa thuật lại rằng: Trên con đường phố chàng gặp một Sa Môn phong cách rất tự tại. Vị Sa Môn này đã làm cho chàng phát sinh lòng kinh cảm, rồi chàng không ngần ngại hỏi vị Sa Môn xem Tôn sư Ngài là ai. Sa môn ấy chính là Trưởng lão Assaji một trong những vị đệ tử đầu tiên của đức Phật, và cũng là một trong sáu mươi vị Thánh A La Hán. Trưởng lão Assaji còn xác nhận rằng Ngài chỉ là một đệ tử của vị Ðại sĩ thuộc giòng họ Thích Ca.

Khi Upatissa yêu cầu Sa Môn Assaji ban bố giáo lý thì Ngài nói rằng không thể thuyết pháp được nhiều, vì Ngài mới thọ Cụ Túc Giới mấy tháng. Và Ngài tiết lộ Ngài vừa chỉ học được bốn chân lý sâu xa (Tứ Diệu Ðế) mà ngoài bậc Giác Ngộ ra, phàm nhân không thể nào quán triệt, một cách mau chóng.

Nhưng Upatissa liền cầu khẩn Ngài chỉ dạy cho, dù một phần tinh yếu cũng đủ cho mình phăng ra mối đạo.

Trưởng lão Assaji nghiêm trang nhắc lại một kệ ngôn của đức Phật rằng:

"Ye Dhammà hetuppabhàvà,

Tesaŋ Hetuŋ Tathàgat’àha,

Tesaŋ Yo Nirodho

Evam’àdi Mahàsamano’ti"

Dịch :

"Pháp nào có nhân ấy,

Bậc Giác Ngộ đã thấy rõ nhân,

Ngài cũng tìm ra con đường diệt quả.

Ðây là giáo lý của các bậc đại Sa môn"
Kệ ngôn này sau khi được đức Phật thốt ra, đã trở thành câu nói gói trọn giáo lý giải thoát, và trở thành triết học căn bản của đạo Phật xuyên qua bao nhiêu thế kỷ.

Upatissa nghe được kệ ngôn ấy liền đắc Pháp nhãn (Dhamma Cakkhu) trong tâm thức, chứng quả Nhập Lưu, Tu Ðà Hườn (Sotàpatti). Rồi khi chàng thuật lại cho Kolita nghe, người bạn ấy cũng chứng quả tương tự. Nghĩa là cả hai cùng giác ngộ rằng "Bất cứ cái gì sinh ra đều về sau phải tan biến".

Sự thấy rõ chân lý do bài kệ này soi sáng, quả thật là một biến cố kỳ diệu. Ðối với chúng ta ngày nay, bốn câu kệ ngôn trên đây, không thể đả thông hết tâm thức si mê, nên chúng ta dẫu nghe vẫn chưa trực nhận được thánh pháp nào. Chiều sâu và chiều rộng của các câu Phật Ngôn ấy, chỉ có thể biểu hiện, đối với những ai đã từng nhiều kiếp tu tập hạnh từ bỏ dục lạc tạm bợ ở đời, và hằng rèn luyện trí tuệ để chứng đắc lý vô thường (luôn luôn chi phối bởi nhân duyên điều kiện) và thấy rõ đạo bất sinh từ.

Hơn nữa, bốn câu kệ ngôn này vốn có tác dụng rất kỳ diệu, đối với những ai trí tuệ đã chí mùi, và từng thuần thục trong pháp quán xét các pháp hành, thuộc nhân duyên điều kiện. Cộng thêm đôi bạn Upatissa và Kolita đã sẵn sàng tâm thức, để đón nhận Pháp bảo, nên kệ ngôn do trưởng lão Assaji thốt ra "Như một giọt nước rót vào chén đã đầy". Sự chứng quả Nhập Lưu Tu Ðà Hườn (Sotàpatti) tự động phát hiện, khiến cho người nghe thấy rõ Giải Thoát Niết Bàn, vượt khỏi những kinh nghiệm thường tình, mà thần chết lúc nào cũng chi phối.

Chỉ trong ánh loé, Pháp nhãn bừng sáng, tri thức giác ngộ phát sanh, họ đã thấy rõ lý bất sinh bất diệt!

Ðến đây cũng cần nhấn mạnh rằng: Ba vị Ðại Đệ Tử thân cận nhất của đức Phật, là A Nan Ða (Ananda), Xá Lợi Phất (Upatissa Sàriputta) và Mục Kiều Liên (Kolita Mahà Moggallàna) đã đắc quả Nhập Lưu (Tu Ðà Hườn), không phải nhờ nghe Pháp Bảo từ miệng đức Phật, mà từ các Thánh Nhân thừa truyền Phật giáo.

-Xin nhắc lại: A Nan Đa thì do thầy tế độ, một Thánh A La Hán tên là Punna Mantàniputta. -Trong khi đó, Xá Lợi Phất (Sariputta) thì do trưởng lão Assaji, như đã thuật ở trên. -Còn Mục Kiều Liên (Moggallàna) thì do người bạn vừa đắc quả Tu Ðà Hườn của mình. Người bạn nầy chưa đạt tới Thánh Quả




| Chia sẻ |
THẢO LUẬN  
Chưa có thảo luận nào

Tin cùng loại cũ hơn