Trong Mahàpadãna Sutta, bài thứ 14 thuộc Dìghà Nikàya (Trường Bộ Kinh) đức Phật đã đề cập đến những vị Chánh Ðẳng Chánh Giác trong quá khứ, và xác nhận rằng: Các vị Chánh Ðẳng Chánh Giác mỗi vị đều có hai đệ tử lãnh đạo, và một đệ tử hầu cận. Rồi trong một chỗ khác, kinh Saŋyutta Nikàya (Tạp Bộ 17,14) Phật còn nói rằng: Tất cả những bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác trong quá khứ và tương lai đã, hay sẽ có một đôi đệ tử xuất sắc nhất.
Mỗi khi có đấng Toàn Giác xuất thế, ba vị đại đệ tử này (tức hai vị lãnh đạo Tăng chúng và một vị hầu cận) rất cần thiết. Ngài ví họ như ba vị cầm đầu ba bộ Quốc phòng, Nội vụ và Tài Chánh của một nhà vua. Ðức Phật so sánh việc điều hành Phật giáo, như cách tổ chức của một quốc gia, Phật đã nói Ananda (Ðại đức A Nan Đa) như người “Tàng Trữ Pháp Bảo” (Bộ trưởng Tài Chánh), vì Ananda là đệ tử nhớ tất cả những bài pháp của Phật thuyết. Ðức Phật cũng nói Sàrìputta như vị "Tổng Tư Lệnh" chu toàn, bảo vệ phạm vi Giáo Hội (Bộ Trưởng Quốc Phòng) và Mahà Moggallàna là người có trách nhiệm nội bộ, như bà vú trong gia đình chăm lo con cái, như "Bộ Trưởng Nội Vụ" duy trì nội an.
Cả bốn Thánh Nhân này (tức đức Phật cộng với hai đệ tử lãnh đạo và một đệ tử hầu cận) có thể chia làm hai nhóm: Nhóm thứ nhất gồm hai vị có nhiều điều tương đồng. Chẳng hạn như đức Phật và Ananda (A Nan Đa) thuộc giai cấp "Chiến sĩ" (Khattiya) và cùng sinh trong một ngày. Tương tự như thế, nhóm thứ hai gồm Sàrìputta (Xá Lợi Phất) và Mahà Moggallàna (Đại Mục Kiền Liên) thuộc giai cấp Bà La Môn, và ra đời cùng một lúc.
Sự quan hệ nhân tộc này đã nghiệm đúng trong đời sống thanh tịnh hàng ngày. A Nan Đa (Ananda) luôn luôn ở bên cạnh Phật, kể từ khi ông trở thành đệ tử hậu cận như bóng với hình. Còn Mahà Moggallàna và Sàrìputta (Mục Kiền Liên và X á Lợi Phất) thì gần như không thể tách rời nhau được.
Lúc tuổi về chiều, mỗi khi đức Phật cảm thấy thân thể mỏi mệt, ba vị Ðại Đệ Tử này là ba vị duy nhất được Phật cho phép nhân danh Ngài giảng giải giáo pháp.
Chẳng hạn như đã xảy ra ở Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ) Mahà Moggallàna thay Phật thuyết một bài pháp thật dài, nói về sự thu thúc lục căn để đối trị tình trạng chìm đắm trong lục trần. (Theo Saŋyutta Nikàya : Tạp Bộ Kinh, 35, 202).
Sau khi Sàrìputta và Mahà Moggallàna đắc quả A La Hán. Ðức Phật đã tuyên bố trước Tăng chúng rằng họ sẽ đóng vai trò hai vị đệ tử lãnh đạo.
Một số Tỳ Khưu tỏ ra ngạc nhiên và bắt đầu so bì tại sao đức Thế Tôn lại nâng đỡ những Tỳ Khưu "mới nhập môn". Họ bàn tán: "Người xứng đáng được Phật ban cho phẩm vị ấy phải là nhóm năm thầy Kiếu Trần Như (Pañca Kondañña), hoặc giả Trưởng lão Yasa, hay ba vị đại Sa Môn Kassapa (Ca Diếp). Tại sao đức Phật không ngó ngàng các vị này, mà lại ban giáo phẩm cao nhất, đến những đệ tử mới xuất gia và thấp hạ nhất?"
Ðể phân giải sự xôn xao ấy, đức Thế Tôn dạy rằng: Mỗi người chỉ gặt hái những gì họ đã tạo. Sàrìputta và Mahà Moggallàna vốn trong nhiều kiếp quá khứ, đã gieo trồng phẩm vị ấy. Cả hai đã tuần tự bồi đắp công năng trở thành đại đệ tử Phật. Trong khi đó những Tỳ Khưu khác chỉ cố gắng tiêu trừ phiền não, để giải thoát mà thôi. Tuy cả hai vị Ðại Đệ Tử thuộc về một giai cấp xã hội khác, và từ một tín ngưỡng khác mới gia nhập Phật giáo, nhưng địa vị đặc biệt của họ trong hàng Thánh nhân là một địa vị đặc biệt, do luật nhân quả ấn định.
Ngoài ra đức Phật cũng đã nhiều lần, trong nhiều trường hợp khác nhau, ca ngợi đôi đệ tử ưu tú này như sau:
"Sàrìputta và Mahà Moggallàna là những vị Thánh nhân độc đáo, là những Sa Môn ưu hạng trong cộng đồng Tăng lữ. Họ luôn luôn thực hành đúng lời giáo huấn của Như Lai, sống theo chân lý. Hai Thánh Tăng ấy xứng đáng cho hàng Tứ Chúng lễ bái và kính mến (Saŋyutta Nikàya: Tạp Bộ Kinh 47, 14)". -Và:
"Nếu một người mẹ hiền, thường khuyên nhắc đứa con trai yêu quí rằng: Này con! Con nên học hành và giữ gìn nết hạnh như một Quan Nội Giám hay như một Hatthaka của giòng họ Alavi, -vì đây là hai hạng người gương mẫu của xã hội hiện tại, thì xa hơn nữa bà mẹ ấy nên dạy tiếp rằng: Này con! Ðức con yêu quí của mẹ. Nếu con muốn được giải thoát, sống đời sống vô gia đình của một đạo sĩ chân tu, thì con nên làm như Sàrìputta và Mahà Moggallàna, -vì hai Sa Môn này là hai tấm gương sáng của các hàng Tỳ Khưu vậy!". (Theo Saŋyutta Nikàya 17, 23).
Một chỗ kinh khác:
"Này chư Tỳ Khưu! Hãy học hỏi và tu tập cùng Sàriputta và Mahà Moggallàna, vì hai Sa Môn này có đầy đủ sức thông minh và tinh thần hỗ trợ cho đồng đạo trong đời sống Thánh Thiện! Sàrìputta có thể ví như người mẹ, và Mahà Moggallàna ví như bà vú. Sàrìputta đủ khả năng hướng dẫn phàm Tăng đến Thánh quả Nhập lưu, và Mahà Moggallàna sẽ đưa họ đến cứu cánh giải thoát!" (Majjhima Nikàya: Trung Bộ Kinh số 141).
Ðặc điểm của hai vị Ðại Đệ Tử này trong các lời khen ngợi nêu trên của đức Phật, có thể phân tích như sau: Sàrìputta có một biệt tài khai thị và hỗ trợ những ai được Ngài dạy dỗ, chặt đứt ba xiềng xích sanh tử đầu tiên nơi tâm thức (là thân kiến hay ngã chấp, hoài,và mê tín), để bước vào Thánh đạo! Nghĩa là Ngài có khả năng cải hóa phàm nhân một cách rất hiệu quả, bằng cách làm cho họ thấy rõ sự ảo mộng của kiếp người, rồi đưa họ vào giai đoạn bình an, không còn sa đọa.
Sàrìputta giống như một hiền mẫu, hằng theo dõi và hướng dẫn những bước chân đầu tiên của trẻ thơ. Hoặc nói cách khác, Sàrìputta là vị thầy thọ ký, hay ít nhất là bậc Sa Môn làm “nở” được đoá hoa Tu Ðà Hườn trong mỗi học trò.
Còn Mahà Moggallàna hằng tiếp tục hướng dẫn chư Tỳ Khưu đã bước vào Thánh lưu, tiến đến mục tiêu cuối cùng. Mahà Moggallàna không bao giờ để cho một vị Tu Ðà Hườn dừng lại ở đó, mà sẵn sàng soi sáng khuyến khích hành giả tới nơi tới chốn. Mahà Moggallàna như một Sa Môn vô địch về đức tính tinh tấn, nên những Tỳ Khưu nào hữu duyên tu tập gần ông, có thể xem như tu tập gần đức Phật, vì phương pháp phát triển tinh tấn mà Mahà Moggallàna áp dụng để hỗ trợ đồng đạo, cũng giống như phương pháp mà đức Phật đã hỗ trợ Ngài trước đây. Nói tóm lại, Mahà Moggallàna gần như một bà vú luôn luôn dinh dưỡng và củng cố sức mạnh của trẻ thơ cho đến khi khôn lớn vững chắc.
Riêng đức Phật tượng trưng cho sự tổng hợp của hai phẩm tính Sàrìputta và Mahà Moggallàna. Nếu Sàrìputta là người mẹ, Mahà Moggallànalà là bà vú, mỗi người có một ân đức riêng đối với trẻ thơ, thì đức Phật quả thật vừa là người mẹ, vừa là bà vú đối với tất cả chúng sanh, nhất là đối với những ai đã bước vào con đường Bát Chánh (Atthangika Magga).
Ðể cho dễ nhớ hơn, chúng ta có thể tóm tắt rằng, cuối cùng Sàrìputta và Mahà Moggallàna đều đã giải thoát. Những phương tiện để hai vị này tiến tới giác ngộ, gòm chiều rộng và chiều sâu. Sàriputta nhờ vào Trí Tuệ hay Minh Sát (rộng), và Mahà Moggallàna nhờ vào Thiền Định (sâu) (Ceto vimutti ca anivimutti ca).
Dữ kiện này được hoàn toàn chứng minh khi hai Ðại đệ tử Phật được giao phó trách nhiệm chăm sóc sự tu tập của Rahula (La Hầu La), người con kiếp chót của cựu hoàng tử Sĩ-Đạt-Ta, hay đức Phật.
Vì là một Tỳ Khưu vừa xuất gia, Rahula có hai vị thầy A Xà Lê (Acariya): Một dạy dỗ về Pháp và một chăm sóc hạnh kiểm, Luật. Sàrìputta được Phật chỉ định làm thầy dạy đạo, và Mahà Moggallàna làm sư trưởng giám hộ hạnh kiểm và tu tập Thiền Định.
Một hôm, Sàrìputta nói với Mahà Moggallàna rằng: "Này đạo huynh! Sự hiểu biết của bần Tăng so với những thần thông vĩ đại của đạo huynh chẳng khác nào một mảnh đá vụn đối với toàn khối núi Hy Mã Lạp Sơn to lớn hùng vĩ!"
Mahà Moggallàna liền đáp lại rằng: "Nhưng đổi lại, này Sàrìputta! Về sức thông minh, trí tuệ của bần đạo đối với trí tuệ của Thánh huynh chỉ như một hạt cát nhỏ trong một bãi sa mạc!" (Theo Saŋyutta Nikàya 21,3).
Về những tầm thông thái đa diện, một hôm đức Phật đã tiết lộ rằng: "Có những pháp chỉ có Như lai mới nghiệm ra, và có thể thông giải bởi Sàrìputta, chứ không phải bỡi Mahà Moggallàna. Rồi cũng có những pháp, cả Sàrìputta và Mahà Moggallàna đều cắt nghĩa được. Nhưng cũng có những pháp chỉ có Mahà Moggllàna mới đủ khả năng “giải thích”, chứ không phải bất cứ một Tỳ khưu nào khác!" (theo Jataka 483).
Vì vậy, hai vị Ðại đệ tử ấy có thể xem như hai gạch nối giữa những phẩm lực tối thượng của đức Phật với khả năng của chư vị đệ tử khác.
Khi Ðề Bà Ðạt Ða tuyên bố đòi lãnh đạo Giáo Hội, đức Thế Tôn đã nói rằng Ngài sẽ không giao phó ai cầm đầu Tăng chúng. Ngay cả hai vị Ðại đệ tử Sàrìputta và Mahà Moggallàna, khiến cho Ðề Bà Ðạt Ða (Devadatta) bị cô lập. (Theo C ùla Vagga VII, 3= Tiểu Phẩm VII, 3).
Trong sự thẩm định những đệ tử ưu tú trên cán cân, một bên là Sàrìputta hay Mahà Moggallàna, và bên kia là Ðề Bà Ðạt Ða (kẻ hằng làm cho nhiều Tỳ Khưu nông nỗi trở nên hư hỏng), còn có một số đông Sa Môn khác với nhiều trình độ và công hạnh khác nhau, nên đức phật đã phủ dụ như thế.
Bởi tranh giành chức "Ðệ tử ưu tú" mà một Tỳ Khưu tên Kokàlika, nghe lời Ðề Bà Ðạt Ða (Davadatta), đã có lần vu khống hai vị Ðại đệ tử ấy rằng "họ có nhiều ác ý", thay vì sự tố cáo đó nên nhắm vào Ðề Bà Ðạt Ða.
Ðức Phật đã dạy:
"Này Kokàlika! Ông không nên lầm lẫn như thế! Hãy thân thiện và tín nhiệm Sàrìputta và Mahà Moggallàna, vì họ là hai Sa Môn có đức độ và khả năng!" (theo Saŋyutta Nikàya, Tạp Bộ Kinh 6- 10).
Dù được Phật nhắc nhở như vậy, nhưng Kokàlika vẫn tiếp tục vu oan nên đã chịu quả khổ. Theo kinh ghi lại thì Ðề Bà Ðạt Ða (Devadatta) và Kokàlika đã bị đọa vào địa ngục Vô Gián, tức địa ngục của những kẻ nặng tội nhất. Ngược lại, Sàrìputta và Mahà Moggallànathì đạt tới Thánh quả cao nhất, giải thoát Niết Bàn.