Vụ trấn yểm bùa trên sông Tô Lịch - bài đọc thêm - 5

Đăng ngày: 13/03/2014 23:08
PHẦN 2 : AI ĐÃ THỰC HIỆN VIỆC TRẤN YỂM NÀY VÀ NHẰM MỤC ĐÍCH GÌ ?

"Thiếu gì những kẻ muốn xâm lăng,
Vũ khí hung tàn có thể ngăn.
Chỉ sợ Tâm Linh bày cuộc chiến,
Còn hơn là Ðịa chấn- Sơn băng.
Như Hải tinh trong Quốc bảo mình,
Ðời nào cũng có bậc anh minh.
Mỗi khi sông núi vang lời gọi,
Là có Rồng thiêng biến hữu hình ".



Hiện nay có vài lý giải về việc này , HungBui xin nêu lên đây để mọi người rộng đường tham khảo:

1/Kết luận của giáo sư Trần Quốc Vượng được chấp nhận, đây là trận đồ bát quái yểm trấn giữ cửa thành Đại La từ thế kỷ IX.

2/ Các tác giả bên trang TTVNOL : cái trận ở dưới lòng sông đó có tên là "An bang định quốc" nghĩa là nó đem lợi không chỉ cho vua chúa triều thần sự yên ổn vững bền, mà thông quá đó nó còn giữ cho sự bình yên của cả một dân tộc. Nếu động vzô thì chửa cần "người chèn vật ép" mờ ngay phần linh của nó đã phản ứng rùi !

Trong dự án đó có vziệc nạo vét kè bờ các dòng sông trong thành phố, ở các khúc khác thì "nỏ" mần chi, dưng đến khúc "Trấn Tây" này thì gặp chuyện. Sau khi be bờ tát nước, vét bùn một chút thì đáy sông lộ ra một đám cọc đóng thẳng đứng dưới lòng sông, mỗi cái cọc có bề hoành chừng hơn gang tay. Có tám cụm, mỗi cụm bảy cái xếp theo hình thất tinh (hình chòm sao Đại hùng), tám cụm cọc ấy xếp theo hình bát quải. Cái hình nhà bác Quốc "đầu râu tóc trắng" chụp bằng ĐTDĐ dưng mà rõ nét ra phết.


[B]3/ Của bạn theanh_vnpt : Trận Bát Quái Tiên Thiên Đồ được sắp xếp để trấn long hãm địa như vậy mà lại dùng đến lối trấn ác độc mức cao nhất của Phong Thủy rõ ràng là hành động tàn ác phi nhân tính,không thể gọi là Thánh Vật được. 

Theo như cách trấn long tàn độc này thì trong Huyền Không học có ghi rõ,cần 8 cái trụ để lập trận, chôn sống theo nó là 8 người con trai(tráng nam) khỏe mạnh,8 người con gái trinh tiết(đồng trinh) và 8 đứa trẻ con(đồng tử) để dùng oán khí cộng hưởng của họ tạo thành bức tường bảo vệ trận. Về cơ bản đây là lối trấn mạnh mẽ nhất và cũng là tàn ác nhất. 

Nếu như bài báo ghi là đã trục vớt được 7 cái cọc, tôi nghĩ vẫn còn sót 1 cái. Việc nhổ cọc và làm thoát tà khí-oán khí tích tụ hàng trăm năm khiến người xung quanh bị ảnh hưởng là chuyện dễ hiểu. Nhưng đã chôn cất hài cốt,làm lễ siêu độ rồi mà vẫn còn ảnh hưởng mạnh đến vậy có lẽ không hẳn trong đó chỉ có oan hồn không siêu thoát, hoặc là cách trấn ác độc này gìm giữ không cho các linh hồn siêu thoát, hoặc là trên chúng có diêm thần,diêm tướng chỉ huy nên việc phá trận là rất nguy hiểm với người phá trận. 



4 /HungBui : Người viết bài này lại có ý kiến khác hẳn: Theo thiển ý của người viết, đây là một hiện tượng chấn yểm nhằm cắt và bế Long Mạch, chận đường của Khí. Ai đã chấn yểm vị trí này và mục đích sự chấn yểm này để làm gì?. Theo thiển ý của người viết: Đây là tác phẩm của Cao Biền, Tiết độ sứ của TQ vào thế kỷ 8 -Tức là trước thời nhà Lý khoảng 200 năm.
Người viết xin được tiếp tục phân tích như sau:





VỊ TRÍ TRẬN ĐỒ HIỆN NAY 


ĐỊNH HƯỚNG TỪ CỦA QUÁN ĐÔI


BẢNG SỰ TÍCH ĐỀN QUÁN ĐÔI

 


HAI CÂU ĐỐI TRƯỚC CỔNG ĐỀN

CÂU THỨ NHẤT : 

DỊCH VỌNG TIỀN THÔN TỪ MIẾU NHẤT TÂN NHÂN VẬT THỊNH .
CỔNG LÝ HOÀNG HẬU TÍCH ỨC NIÊN PHỤNG SỰ DIỆU THẦN UY .

Tạm dịch : 
Thôn Dịch Vọng tiền Đền Miếu sửa sang nhân vật thịnh .
Hoàng hậu đời Lý muôn năm được thờ cúng rạng rỡ Thần uy .



CÂU THỨ HAI :

ĐỨC KỲ THỊNH HĨ HỒ CAO PHỐI THIÊN HẬU PHỐI ĐỊA .
QUÁN GIẢ NHƯ ĐỔ THÍNH HỮU TỰ TRÍ TÍN TỰ LAI .


Tạm dịch : 

Đức của Thần thịnh thay cao như Trời , dày như Đất .
.....Có lòng tin thì sẽ đến đây .Hai câu đối tuyệt hay lấy toàn Điển tích . Câu đầu lấy trong sách TRUNG DUNG . Câu thứ hai có lẽ lấy trong sách HÁN THƯ .
Còn 4 chữ chưa dịch được là QUÁN GIẢ NHƯ ĐỔ THÍNH bạn nào biết bổ xung giúp .



Bữa nay TS. NGUYỄN XUÂN DIỆN đã dịch và tra ra Điển tích như sau : " Người đến xem chật như nêm cối , phải có tin thì mới đến " - Điển tích này lấy trong KINH LỄ - Kể về sự tích Đức Khổng tử bắn cung tại vườn Quắc Tướng . 
Câu này có lẽ là lời Tiên tri cho Đền Quán Đôi chăng ???




Trong gian chính giữa có tấm hoành phi : HẬU LÝ MẪU NGHI ( Mẫu nghi thời Lý ) .
Hai bên cũng có đôi câu đối :

LỊCH ĐẠI BAO PHONG CHIÊU THÁNH ĐỨC .
ỨC NIÊN HƯƠNG HỎA TẤU THẦN CÔNG .


Bên Sơn trang có tấm hoành phi : SƠN TRANG MẪU TỰ NGÀN DUY NHẠC GIÁNG THẦN ( Thần chọn nơi núi lớn hiển hiện ) .
Bên Trần Triều có tấm hoành phi : 
TRẦN TRIỀU HIỂN THÁNH .

Người viết xin cảm ơn tất cả những bản dịch của TS. NGUYỄN XUÂN DIỆN - PGD. THƯ VIỆN HÁN NÔM .
HungBui.





THẦN TÍCH ĐỀN QUÁN ĐÔI
( Chép tại Đền Quán Đôi ) .


Ngọc phả xưa ghi công tích của Khai Quốc Công Thần Triều Lý , có công lớn , một vị Công chúa , một vị Hoàng tử Đại Vương trong bản chính của Bộ Lễ Quốc Triều về Công Thần ( Bộ thứ 6 , có 9 nhân Thần - Thuộc chi Khảm ) .

Trước đây dân chúng truyền lại rằng : Ở trang YÊN DŨNG - HUYỆN TỨ KỲ - PHỦ HẠ HOÀNG - TRẤN HẢI DƯƠNG , có Tù trưởng họ Trần , tên Lữ , vợ là VŨ THỊ HOÀN . Vợ chồng hòa hợp , bản tính hiền lành , lấy việc Nông trang sinh sống . Vào giờ Mão ngày 4 tháng 6 năm Bính Thân bà sinh được một người con gái . Hai vợ chồng vô cùng mừng rỡ , nuôi dưỡng hết sức cẩn thận , chu đáo . Cô bé hồng hào rực rỡ , dáng mạo đẹp đẽ , trong tay trái có chữ CHỦ màu đỏ . Ông bà rất lấy làm lạ , cho là không phải người thường . Cô bé được chăm sóc đầy đủ . Lên hai tuổi đặt tên là Phương nương ( Nàng Phương ) . 

Khi đã lớn , những lúc mẹ đi hái dâu nàng đều đi theo . Bỗng có đám mây che trên đầu nàng Phương . Bà mẹ trông thấy việc kỳ lạ , liền về kể lại với chồng . Lã Công biết thế xong dấu kín trong lòng , không lộ chuyện với ai . Ngày tháng trôi đi , bé Phương đã 18 tuổi . Bấy giờ có một vị quan trong Triều tên là LÝ CÔNG TRINH , nghe tiếng nàng Phương vừa đẹp lại đảm đang , liền lập tức mời bố mẹ nàng Phương đến có lời và xin cưới về làm vợ . Ông bà Lã Công ưng thuận và cho LÝ CÔNG TRINH được cử hành hôn lễ và rước Nàng về Công sở . Hai năm sau nàng Phương sinh được một đứa con trai ( vào giờ Tý ngày mùng 8 tháng 12 năm Ất Mão ) . Đứa bé mặt mày sáng sửa tai to ngực lớn , thân dài , tướng mạo đường đường rõ không phải là người bình thường . Tròn 100 ngày cậu bé được đặt tên là THỐNG . Năm cậu THỐNG được 18 tuổi , giặc đến xâm phạm bờ cõi nước ta , thư ở Biên giới liên tục cấp báo về Triều đình . Vua nghe tin liền triệu Quan bộ Chủ LÝ CÔNG TRINH thay mặt Vua cầm quân đi dẹp giặc . Vừa tiến quân vào đến nơi đồ sở của giặc , Quan Bộ Chủ đã bị Tướng giặc bắn chết ngay tại chỗ ( ngày 17 / 5 ) , xác bị bêu ở Bàng Châu . Lúc bấy giờ hai mẹ con nàng Phượng nghe tin dữ , liền lên Bàng Châu nhận xác Quan Bộ Chủ về mai táng . Tướng giặc trông thấy nàng Phương rắp tâm muốn ép về làm vợ . Song hai mẹ con nhất định không chịu . Tướng giặc nói : Nếu ưng thuận theo ý ta thì mẹ sẽ được phong Hoàng hậu , con sẽ được phong Hoàng tử . Hai mẹ con nàng Phương dứt khoát khgông nghe . Tướng giặc truyền quân lính đưa hai mẹ con nàng Phương ra bờ sông Bàng Châu chém đầu . Lệnh ban ra , hai mẹ con nàng Phương giả vờ ưng thuận , vì thế mà thoát khỏi tội chết . Một hôm , hai mẹ con tìm cách ra đến ngôi quán ở Trang Dịch Vọng Tiền - Thuộc Huyện Từ Liêm - PHỦ QUỐC OAI - TRẤN SƠN TÂY . Lúc ấy Trời đã xế chiều , hai mẹ con vừa đói vừa khát . Bấy giờ trong Trang có nhà ông LÊ CÔNG ĐOAN , giàu có phong lưu lại hay làm việc thiện . Thấy tình cảnh của hai mẹ con như thế mới hỏi rõ tên tuổi , ngọn nguồn rồi chu cấp cho hai mẹ con tiền của sống qua lúc ngặt nghèo . Ba ngày sau bỗng thấy Trời đất tối tăm , mưa to gió lớn nổi lên , hai mẹ con hóa ngay tại đây ( ngày 21 tháng 3 ) . Một lúc sau Trời tạnh , dân làng kéo ra xem thì đã thấy mối đùn lên thành một ngôi mộ . Từ đó nơi đây rất thiêng , ai có tâm thờ sẽ được bình yên , nhân dân bèn lập miếu thờ phụng . 

Lại nói lúc đó nhà Vua nghe tin Bộ Chủ thất trận bèn thân chinh đi cầm quân đánh giặc . Qua Dịch Vọng Tiền , tự nhiên xa giá bị níu lại , không tiến lên được . Vua lấy làm lạ , đến nửa đêm mơ thấy một người đàn bà tự xưng là hai mẹ con tâu rằng : Chúng Thần nghe tin nhà Vua thân chinh đáng giặc nên theo giá , xin lập công Âm phù giúp nước , để lại tiếng thiêng , sau này mong được hưởng lộc nước . Nói xong bỗng thấy hai khối lửa sáng bay ngay trước mặt . Vua tỉnh dậy , lập tức triệu dân trong vùng đến hỏi rằng : Đêm qua ta bỗng mơ thấy hai mẹ con rất rõ ràng , vậy ngôi Miếu đó thiêng như thế nào . Bấy giờ mọi người mới nói đầu đuôi sự việc . Vua bèn truyền cho dân chúng làm lễ tạ trước Miếu . Lễ xong bỗng thấy mưa gió nổi lên , xa giá đi như bay , một khắc sau đã đến đồn sở của giặc , đánh một trận giáp công ồ ạt . Quân Tướng giặc đại bại chạy tan tác . Sau khi Vua thắng trận lập tức trở về Triều đại khai yến tiễc rồi ra lệnh mang Sắc chỉ đến Linh Miễu ở Bản Trang , truyền cho nhân dân sửa sang Đền Miếu thờ phụng hai mẹ con . 

Vua lại cho dân 100 Quan tiền , để chi dùng vào việc đèn hương và bảo phong cho Mỹ tự để được thờ mãi cho muôn đời . Thật đẹp thay .
Phương nương được phong là Lý Hoàng hậu , Trinh khiết , đoan phương , Tôn Linh Công chúa .

Lý Công Thống được phong là : Dũng Vũ , Cương nghị , Thống Hoàng Đế Đại Vương .
Cho phép dân trang Dịch Vọng Tiền làm hộ nhi ( trông nom đèn hương , thờ phụng , miễn phu phen , tạp dịch ) . Đây là nơi chính sở , được thờ phụng mãi mãi . 
Ngày lành tháng 1 , niên hiệu Hồng Phúc năm đầu ( 1572 ) . Lễ Bộ Hàn lâm viện Đông các Học sĩ NGUYỄN BÍNH phụng soạn .


Ngày lành tháng 8 niên hiệu Vĩnh Hựu 5 , Quản giám bách Thần Tri Diện Hùng lãnh Thiếu Khanh Nguyễn Hiên phụng mệnh soạn theo chính bản .
Bản dịch : VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM.
PHÓ GS- TS ĐỖ THỊ HẢO .

ĐÂY LÀ BẢN GỐC CỦA VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM .
NHỮNG TƯ LIỆU HÁN NÔM MỚI PHÁT HIỆN TẠI ĐỀN QUÁN ĐÔI TẠI KHÚC SÔNG TÔ LỊCH, HÀ NỘI
ĐỖ THỊ HẢO


PGS.TS. Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Đền Quán Đôi xưa thuộc xã Dịch Vọng Tiền, tổng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Trong quá trình thi công xây kè bờ sông Tô Lịch đến đoạn đền Quán Đôi đã xảy ra một số sự kiện vừa qua được báo chí đăng tải khá nhiều. Báo Văn hoá (ngày 2-6/10/2002) đăng bức thư ngỏ của Đội trưởng đội thi công 12 gửi các nhà khoa học và các nhà nghiên cứu có những đoạn như sau: ... “Cách đây hơn một năm, tại nơi chúng tôi thi công(1) đã phát hiện di chỉ khảo cổ học bao gồm nhiều hiện vật như: xương răng động vật, đồ gốm sứ bị vỡ, liễn sành, nhiều cây cột gỗ vàng tâm, một số vũ khí sắt và tám bộ hài cốt người... Điều làm cho chúng tôi hoang mang và lo sợ nhất là sau khi phát hiện ra những hiện vật, trong đó có cả hài cốt người thì hầu hết những người thân trong gia đình anh em công nhân đều có chuyện bất hạnh xảy ra... Trong thời gian qua, cũng đã có một số nhà khoa học xuống hiện trường và đưa ra một số nhận định sơ bộ. Để đảm bảo và ổn định tinh thần của anh em công nhân trong thời gian tới, hơn nữa theo chúng tôi là cần có những ý kiến chính thức về mặt khoa học đối với di chỉ khảo cổ học này, kính đề nghị các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu và các cơ quan chuyên môn bắt tay nghiên cứu một cách cụ thể nhằm đưa ra kết luận xác thực”.

Vào khoảng cuối năm 2001, GS. Trần Quốc Vượng và PGS. Đỗ Văn Ninh đã tìm ra ủng thành duy nhất còn sót lại ở đây. Theo PGS. Đỗ Văn Ninh thì “có thể giả thuyết đây là một địa bàn trấn yểm mà bất kỳ công trình xây dựng nào cũng phải có khi động thổ, đặc biệt là đối với một vị trí quan trọng như cổng thành phía Tây của La Thành”. Và còn nhiều những ý kiến khác đề cập đến vấn đề phong thuỷ, vấn đề tâm linh, rồi “bùa yểm của Cao Biền”, hoặc là nơi diễn ra lễ hiến tế, mà vợ chồng người bán dầu họ Vũ đã chấp nhận làm vật hi sinh để vua Lý khỏi bệnh đau mắt, ...

Vừa qua chúng tôi được các cụ trong Ban quản lý đền Quán Đôi mời đến khảo sát một số tư liệu Hán Nôm hiện có trong đền. Trong bài viết này, chúng tôi không có ý định giải thích bất cứ vấn đề gì đã nêu ở trên mà chỉ muốn giới thiệu những tư liệu Hán Nôm tại đền Quán Đôi chưa từng được công bố nhằm góp phần thêm để rộng đường nghiên cứu.



Ngoài tấm bia Hạ Mã ngay cửa đền, hiện trong đền còn một số hoành phi, câu đối và tấm bia Mục lục Thái Hoàng bi ký, cùng bản thần tích (lưu tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, mang ký hiệu AE). Nội dung bản thần tích của xã Dịch Vọng Tiền, tổng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông tóm tắt như sau:

Tương truyền ở trang Yên Dũng, huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương có vị tù trưởng họ Trần tên là Lữ, vợ là Nguyễn Thị Hoàn, vốn tính hiền lành, lấy việc nông tang làm nghề sinh sống. Vào giờ Mão ngày mùng 4 tháng 6 năm Bính Thân bà sinh được một cô bé mặt mũi rạng rỡ, dáng mạo đẹp đẽ, trong lòng bàn tay trái có chữ “chủ” màu đỏ. Ông bà vô cùng mừng rỡ, cho là điềm lạ và đặt tên là Phương. Ngày tháng trôi qua nàng Phương đã 18 tuổi. Bấy giờ có một vị quan trong triều họ Lý tên là Công Trinh nghe thấy nàng Phương nết na xinh đẹp liền đến xin cưới nàng làm vợ. Hai năm sau, vào giờ Tý ngày mùng 8 tháng 12 năm Ất Mão, nàng sinh được một cậu con trai đặt tên là Thống mặt mày sáng sủa, tai to ngực lớn, tướng mạo đường hoàng không phải người thường. Năm cậu Thống 18 tuổi, giặc Ma Na kéo đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Vua liền cử quan Bộ chủ Lý Công Trinh thay mặt vua cầm quân đi dẹp giặc. Vừa tiến đến đồn sở của giặc, quan Bộ chủ đã bị tướng giặc bắn chết ngay tại trận (đó là ngày 17 tháng 5), xác bị bêu tại Bàng Châu. Mẹ con nàng Phương nghe tin dữ bèn cùng nhau đến nhận xác quan Bộ chủ về mai táng. Thấy nàng Phương xinh đẹp, tướng giặc rắp tâm muốn lấy làm vợ. Nàng Phương bèn giả vờ ưng thuận để thoát chết. Rồi một hôm mẹ con tìm cách chạy trốn đến ngôi quán ở trang Dịch Vọng Tiền thuộc huyện Từ Liêm, trời đã tối lại vừa đói vừa khát. May nhờ người trong trang là Lê Công Đoan chu cấp cho để sống qua lúc ngặt nghèo. Ba ngày sau, bỗng trời đất tối tăm, hai mẹ con tự nhiên hoá tại đền (đó là ngày 21 tháng 5). Dân làng kéo ra xem thấy mối đã đùn lên thành ngôi mộ. Từ đó nơi đây rất thiêng, ai có trắc trở khó khăn đến cầu khẩn đều được bình yên, nhân dân bèn lập miếu thờ phụng.
Nghe tin Bộ chủ thua trận, nhà vua thân chinh cầm quân đi đánh dẹp. Quân lính đi qua trang Dịch Vọng Tiền tự nhiên xa giá bị níu lại. Nửa đêm nhà vua mộng thấy hai người tự xưng là hai mẹ con tâu rằng: Nghe tin nhà vua đi dẹp giặc nên đến yết kiến xin đi theo lập công âm phù giúp nước, để lại tiếng thiêng sau này mong được hưởng lộc nước. Tỉnh dậy biết là thần báo mộng, lập tức vua truyền lệnh cho làm lễ tạ trước miếu. Lễ xong bỗng mưa gió nổi lên, xa giá đi như bay một khắc sau đã đến đồn giặc, đánh một trận giáp công quân tướng giặc đại bại chạy tan tác.


Sau khi thắng trận lập tức vua lệnh đem sắc chỉ đến miếu thiêng ở bản trang truyền cho dân sửa sang đền miếu để thờ phụng hai mẹ con. Vua lại ban thêm cho dân 100 quan tiền để chi dùng vào việc đèn hương và bao phong mĩ tự cho được thờ mãi mãi cùng hưởng lộc nước.
Bản thần tích còn ghi rõ mỹ tự và nghi thức tế lễ như:

- (Nàng Phương) được phong là Lý hoàng hậu, Trinh Khiết, Đoan Phương, tôn linh công chúa.

- (Con) được phong là Dũng Vũ, Cương Nghị, Thống hoàng đế đại vương.

- Cho phép dân trang Dịch Vọng Tiền làm hộ nhi (được miễn phu phen tạp dịch để trông nom việc đèn hương) đây là nơi chính sở, được thờ phụng mãi mãi.

- Ngày sinh của thần (mẹ) là mùng 4 tháng 6, lễ vật dùng cỗ chay, bánh chay.

- Ngày sinh của thần (con) là mùng 8 tháng 12, lễ vật dùng lợn, xôi, rượu.

- Ngày hoá của thần là 21 tháng 5, lễ vật trong cung dùng cỗ chay, bánh chay, ban ngoài là lợn, xôi, rượu. Tổ chức lễ tế.

- Phải kiêng không được đọc hai chữ tên huý Phương, Thống.

- Miếu dựng theo hướng Bắc Nam, đây là nơi đất “chính linh” (chính chỗ đất thiêng).
Ngày lành tháng 1 niên hiệu Hồng Phúc năm đầu (1572), Lễ Bộ, Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn.

Ngày lành tháng 8 niên hiệu Vĩnh Hữu 5 (1739) Quản giám bách thần, Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh Nguyễn Hiền phụng mệnh sao theo chính bản.

Còn tấm bia dựng trong đền đã ghi lại ngày, tháng, năm, trải qua các triều đại Hoàng thái hậu (tức nàng Phương) được bao phong, cụ thể là:

- Ngày mùng 3 tháng 6 niên hiệu Tự Đức 10 (1857) được ban sắc cho thờ phụng như trước.

- Ngày 24 tháng 11 niên hiệu Tự Đức 33 (1880) được ban sắc cho thờ phụng như trước.

- Ngày mùng 1 tháng 7 niên hiệu Đồng Khánh 2 (1887) được ban sắc phong.

- Ngày 11 tháng 8 niên hiệu Duy Tân (1909) được ban sắc cho thờ phụng như trước.
Đặc biệt bia có khắc nguyên văn đạo sắc phong ngày 25 tháng 7 niên hiệu Khải Định 9 (1924) như sau:
Sắc cho xã Dịch Vọng Tiền, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông vốn thờ Dực Bảo Trung Hưng, hậu Lý Nam Đế Hoàng Thái Hậu. Hoàng Thái Hậu bảo vệ nước, che chở cho dân có nhiều công đức, đã từng được ban cấp sắc chỉ cho phép dân thờ phụng. Đến nay đã ban cho chiếu quý, ơn lớn, về lễ đáng được xếp lên bậc.

Đặc biệt cho phép dân xã được thờ phụng như cũ, để ghi nhớ ngày vui của nước được thể hiện ở sự tôn trọng – Phải kính tuân theo.

Bia do xã Duệ Tú khắc ngày 17 tháng 8 giữa mùa thu niên hiệu Bảo Đại 16 (1941)
Hy vọng với sự phối hợp liên ngành, các nhà khoa học sẽ nghiên cứu và lý giải những điều nêu trên một cách thuyết phục, góp phần đáp ứng được nguyện vọng của người dân địa phương nói riêng và của những người quan tâm đến vấn đề này nói chung.


| Chia sẻ |
THẢO LUẬN  
Chưa có thảo luận nào

Tin cùng loại cũ hơn