Thống kê truy cập

Số lượt truy cập: 3.087.389
Tổng số Thành viên: 53
Số người đang xem:  23

VÔ NGÃ VÔ ƯU . Chương 11

Đăng ngày: 22/02/2014 16:11
Thiền Quán Về Phật Đạo Tác Giả: Ni sư Ayya Khema - Người Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh Dịch từ bản tiếng Anh: Being Nobody, Going Nowhere - Meditations On The Buddhist Path Wisdom Publications 1987
Chương 11
Muời Điều Thiện

 Bố thí, Giới hạnh, với Xuất ly 
 Trí tuệ, Tinh tấn nữa là năm 
 Nhẫn, Chân, Kiên định, Từ bi, 
 Và Xả bỏ nữa là mười. 
   (Lời Phật dạy 
   Buddhavamsa II,  Kệ 76)

   Muốn tu Thiền, hành giả cần có ba đức tính: độ lượng, đức hạnh và từ tâm.  Nhưng cuộc sống tâm linh cao đẹp còn cần đến những đức hạnh khác nữa và chúng cũng cần được vun trồng.

   Những đức hạnh nầy là Paramis (Parama) có nghĩa là tối thượng (ba la mật), là bản tánh chân thật đã có sẳn trong chúng ta.  Nếu không, có khác nào ta vun trồng từ mãnh đất hoang.  Vì chúng đã có sẳn trong ta, ta có thể bắt đầu từ đó.  Tuy nhiên nếu ta không có ý muốn thực hành những điều thiện nầy,  ta sẽ không có được tâm mạnh mẽ và ổn định, là điều tối cần để làm chủ nghiệp mình.  Chúng ta luôn phải dựa vào tình cảm và lòng tốt  của người khác, phải dựa vào môi trường chung quanh và sự thoải mái của thân.  Chừng nào chúng ta còn phải dựa vào một hay tất cả những thứ kể trên, là ta còn phải nô lệ chúng.  Mà phải sống kiếp nô lệ thì chẳng thú vị gì.  Phải luôn sống trong sự sợ hãi.  Dĩ nhiên, ai cũng có những nỗisợ hãi, nhưng phải tùy thuộc vào người khác, hay hoàn cảnh, thì không thể có được sự tự do suy nghĩ hay hành động.  Những thứ tự do sẽ giúp chúng ta được giải thoát.  Nói như thế không có nghĩa là chúng ta muốn làm gì cũng được.  Tự do tư tưởng có nghĩa là ta có những suy nghĩ độc lập, cá biệt và có thể tự quyết định hành động của mình.

  1.   BỐ THÍ

   Điều thiện đầu tiên ta cần bắt đầu là bố thí, chìa khóa mở mọi cánh cửa.  Không có nghĩa là những đức hạnh khác kém quan trọng, nhưng nếu lòng bố thí không được vun trồng, thì con đường tiến đến một đời sống đạo đức khó thể khai thông.  Chúng ta phải bắt đầu cuộc hành trình và đó là bước đầu tiên, là đức hạnh đầu tiên ta cần phải có.

   Đức Phật nói về ba loại bố thí: loại cho người ăn xin, loại cho bằng hữu và loại vương tước.  Loại bố thí cho người ăn xin là khi ta bố thí những thứ ta không cần đến --những thứ khi dọn dẹp nhà cửa, ta cần vứt đi.  Bố thí những thứ nầy, dầu có tốt hơn là không bố thí,  nhưng không được rộng rãi lắm, vì ta không làm giảm bớt những tham muốn và bám víu của mình. 

   Loại bố thí thứ hai là khi ta chia sẽ những gì ta có với người quanh ta.  Ta bố thí có chừng mực, bố thí phần này và giữ lại phần khác.

   Loại bố thí vương tước là khi ta cho nhiều hơn ta giữ lại.  Rất hiếm thấy, có phải không?  Phần đông chúng ta không làm thế.

   Bố thí cần phải có động lực chính đáng.  Nếu ta bố thí vì muốn đánh đổi lại một thứ gì đó --lợi lộc, lời khen tặng, lòng biết ơn-- thì sẽ chẳng ích lợi gì.  Điều nầy nghe có vẻ nghịch lý:  Bố thí không phải để được nhận trả lại điều gì đó.  Bố thí chỉ vì ta muốn bố thí.  Nhưng nếu suy xét kỹ, ta sẽ thấy sự thật rất rõ ràng.  Nếu ta bố thí chỉ vì muốn bố thí, ta chắc chắn sẽ được hạnh phúc, vui vẻ, tâm an bình và sung sướng.  Người ta có thể bố thí vì cảm thấy mình dư dả.  Hay vì muốn chia sẽ với người khác sự sung túc, giàu có của mình.  Hoặc bố thí vì  lòng từ bi đối với người khác.  Đức Phật bố thì vì lòng từ bi đối với chúng sanh.

   Bố thí không chỉ bằng tài vật.  Không phải ai cũng có của cải vật chất để ban phát, dầu phần lớn đều có khả năng đó.  Thật ra phần đông chúng ta không nhớ mình có gì nữa, cho đến khi phải dọn nhà, lúc đó ta mới thấy mình có quá nhiều.  Chúng ta có quá nhiều những đồ dùng trong nhà đến nổi ta có thể cho bớt đi mà vẫn không thấy thiếu thốn.  Nhưng của cải không phải là thứ duy nhất ta có thể san sẻ.  Ta có thể chia sẻ thời gian, sự quan tâm, chăm sóc của mình cũng như chia sẻ tài năng, khả năng của mình.  Đó là mặt quan trọng của bố thí, và sự bố thí nầy được chính phủ cũng như các cơ quan từ thiện thực hành rộng rãi.  Chỉ có một điều là với những hình thức từ thiện nầy, đôi khi người trực tiếp làm các công tác nầy chỉ làm vì đồng lương chứ không vì lòng từ bi thật sự, nên công việc làm của họ có tính cách thương mại.  Nhưng nếu ta bố thí khả năng, tài năng của mình mà không nghĩ gì đến việc được trả ơn thì ta bố thí vì lòng từ.  Đức Phật đã bố thí Pháp với lòng thương xót chúng sanh.

   Bố thí không chỉ có đi mà cũng có lại.  Ta càng bố thí vì lòng từ bi, lòng từ bi trong ta càng tăng trưởng.  Điều nầy cũng dễ hiểu thôi, nhưng ít ai nghĩ đến.  Có người bố thí để được người khác tử tế lại với mình.  Nhưng nếu ta bố thí thật sự vì lòng tốt phát ra từ trái tim, thì rõ ràng ta phải có nhiều lòng tốt hơn thế để ban phát cho người khác.

   Tuy nhiên bố thí dù dưới hình thức nào cũng giúp ta bớt chấp ngã, và đó là lý do tại sao bố thí được kể đầu tiên trong mười điều thiện mà ta cần vun trồng, bảo vệ.  Khi Đức Phật chưa thành đạo, đó là những đức tính Ngài hoàn thiện và có bao nhiêu câu chuyện về các đức tính nầy của Đức Phật trong quyển Jataka, chuyện từ các tiền kiếp của Đức Phật.

   Lòng từ bi của bậc Bồ Tát còn đi xa hơn nữa, họ còn bố thí cả thân mình.  Hy sinh tánh mạng mình cho ai là cách bố thí cao cả nhất.  Người tầm thường như chúng ta khó mà làm nổi.  Tuy nhiên có nhiều mức độ bố thí, mà một sự bố thí dù nhỏ đến thế nào, cũng sẽ làm giảm bớt lòng chấp Ngã của ta.  Bố thí nhiều hơn sẽ làm giảm nhiều hơn nữa lòng chấp Ngã, nếu đằng sau đó là những động lực chính đáng.

   Làm giảm Ngã chấp là mục đích chính trên con đường thanh tịnh hóa, dần dẫn ta đến kinh nghiệm của sự vô ngã.  Ta không thể chỉ hy vọng, cầu nguyện hay tưởng tượng mình sẽ được có kinh nghiệm đó, trừ khi ta bắt đầu làm gì đó để thay đổi sự bám víu vào tự Ngã.  Bằng cách nào?  Bố thí là một sự khởi đầu tuyệt vời. 

      2.    GIỚI HẠNH 
   
   Kế đến là giới hạnh, liên quan đến việc giữ gìn năm giới.  Đức hạnh nầy nhằm làm giảm bớt và dần giúp ta chế  ngự được lòng tham và sân.  Làm giảm bớt lòng sân tham cũng là một cách để làm giảm Ngã chấp vì sân tham chỉ có thể phát sinh do có các ảo tưởng về Ngã.

   Tất cả các Pháp của Đức Phật cũng là như thế.  Đôi khi ta cảm thấy bối rối trước các giáo lý của Đức Phật về sự giải thoát tâm linh.  Nhưng các giáo lý nầy giống như những mảnh rời của một bản hình xếp khổng lồ.  Khi ta có thể đặt một vài mảnh vào đúng vị trí của chúng, thì các mảnh còn lại sẽ được an bài thôi.  Tất cả Pháp đều nhắm đến việc trước tiên làm giảm lòng chấp Ngã, rồi dần dần đến chỗ phá bỏ hoàn toàn ngã chấp, để đi đến Vô ngã.

   Tuân giữ các giới luật là một phần của bức ảnh tổng thể đó.  Khi chúng ta không làm hại đến các sinh vật khác, thì lòng ta bớt sân hận.  Ta chỉ có thể làm hại hay hủy hoại những gì ta không thích.  Khi ta không lấy những gì không phải của mình, thì lòng tham được giảm xuống.  Chỉ khi có lòng tham, ta mới lấy của cải của người.  Cũng thế đối với những sai phạm trong tình dục.  Aùc ngữ là do lòng tham hay sân mà ra.  Các thứ độc hại như rượu, ma túy là do lòng tham muốn thỏa mãn nhục dục mà những thứ nầy có thể dễ dàng mang đến cho ta.

 3.   XUẤT LY

   Xuất ly thường được nghĩ đến như một đức tính của riêng quý tăng ni, các thầy yoga hay những người sống ẩn dật trong các hang núi, nhưng đó không phải là  một suy nghĩ hoàn toàn đúng.  Xuất ly có nghĩa là buông xả những ảo tưởng về tự Ngã.  Nếu trong khi tọa Thiền ta không cố gắng phần nào làm được như thế, thì ta khó mà đạt được Thiền định.  Cái Ngã của ta thích được nuông chiều, chú ý đến luôn.  Khi bị bắt phải im lặng, và không được làm điều gì thú vị, nó phản ứng lại dữ dội, và cố thoát ra khỏi tình trạng đó bằng những việc làm như trò chuyện, đọc sách, mơ màng hay bất cứ thứ gì vừa lòng nó.  Trừ khi chúng ta có thể phá bỏ những thói quen nầy, việc tọa Thiền của ta khó thể thành công.   

+

   Cũng thế, tất cả các thiện tánh đều giúp cho sự tọa thiền của ta.  Chúng nâng đỡ cột sống của ta.  Thiền định cần có một cột sống vững mạnh, không phải chỉ do ngồi thẳng, mà còn phải có tâm chánh niệm.

   Muốn bước trên con đường tâm linh, ta cần phải biết xuất ly.  Điều đó có nghĩa là biết buông bỏ mọi ý niệm về cái tôi, mọi tham vọng, ước muốn của cái tôi.  Tất cả những suy nghĩ đó chỉ củng cố thêm lòng chấp ngã, đưa ta đến chỗ sai lầm.  Những gì ta nghĩ ta sở hữu  -cái nhà ‘của tôi’, bàn ghế ‘của tôi’, chồng ‘của tôi’, vợ ‘của tôi’, con cái ‘của tôi’, thân quyến ‘của tôi’, xe ‘của tôi’, nghề nghiệp ‘của tôi’, văn phòng ‘của tôi’, bạn bè ‘của tôi’  -làm cho ‘cái tôi’ cảm thấy an toàn hơn vì tất cả hợp thành một hệ thống bảo vệ.  Tạo cho tự Ngã những ảo tưởng về một sự vững bền.  Nhưng không có người nào hay sở hữu nào thường hằng, vĩnh viễn cả, tất cả đều luôn biến đổi.

   Nếu thật sự có sự bền vững đó, thì cái nhà, cái xe càng to, càng có nhiều bạn bè con cái, nhiều vợ, nhiều chồng, thì con người càng cảm thấy thêm an tâm.  Thực tế thì càng có nhiều những thứ kể trên, con người càng thêm phiền não, lo âu.  Thử tưởng tượng xem nếu ai đó có mười ông chồng hay bà vợ thay vì một.  Hãy dẹp bỏ ngay tư tưởng đó!  Đó chỉ là một trong những tà kiến về những gì có thể mang đến cho con người sự an tâm.  Ta chỉ thích bao bọc mình với những gì tạo nên ‘cái tôi’, ‘cái của tôi’.  Tư duy của ta khiến ta trở nên như thế, dầu rõ ràng ta không thể làm chủ ai khác được.  Con người có thể ra đi không định trước, có thể chọn lầm người phối ngẫu, hay bỏ rơi nhau không lời từ giả.  Mỗi người tự tạo ra nghiệp của họ.  Vậy mà ta vẫn gọi họ là ‘của tôi’, và thật sự tin rằng họ thuộc về chúng ta.  Một khi ta tin như thế, ta bám víu vào họ suốt đời.  Họ phải lúc nào cũng là ‘của tôi’.  Đó là quá trình tự xác định cái Ngã với gia đình của chúng ta, với công việc của chúng ta  và với tất cả những sở hữu của chúng ta.  Thay vì với chỉ một ‘cái tôi’, giờ chúng ta bành trướng, bao gồm thêm nhiều người khác nữa.  Như thế chúng ta trở nên to lớn thêm.

   Xuất ly sự xác định nầy là một bước quan trọng khởi đầu: chỉ khi nào ta có thể tự đứng một mình, ta mới có thể thực sự tu tập theo con đường đạo.  Không có nghĩa là ta phải đuổi mọi người ra khỏi nhà.  Nhưng khi ta còn tùy thuộc vào ý kiến, hành động của người khác, thì làm sao ta có thể thực tập cho sự tự do, giải thoát của chính mình?  Không có sự dựa dẫm nầy, cái Tôi sẽ trở về kích thước bình thường, của chỉ cái tôi, không có gì hơn.  Như thế dầu tự Ngã vẫn chưa được phá bỏ, nhưng ít nhất nó cũng nằm trong khả năng chế ngự của ta.  Một thân, một tâm, không sở hữu, không bám víu vào bao nhiêu người, bao nhiêu thứ khác.

   Ngay đối với một thiền sư, nếu vẫn muốn đạt được điều gì đó hay trở nên thế nầy, thế nọ, thì cũng chỉ là một cách củng cố thêm Ngã chấp.  Thay vì có mặt trong giờ phút hiện tại, chánh niệm trong từng giây phút, ta muốn trở nên, là một cái gì thuộc về tương lai.  Có thể nói gì về tương lai chứ?  Không có gì.  Tương lai thì hoàn toàn trống không.  Nhưng có mặt, ngay trong hiện tại, là điều ta có thể làm được với tất cả chánh niệm.

   Trở nên, trở thành một thứ gì hơn chính chúng ta -một thiền sư đạt đạo, một ông chủ có danh vọng, giàu có, được mến mộ -sẽ làm cho lòng chấp Ngã của ta thêm nặng.  Trở nên, trở thành không ích lợi gì, là như thế nào thì ích lợi hơn.   Lúc đó ta sẽ dễ đối trị ngã chấp hơn.  Ta có thể chánh niệm về sự có mặt đích thực của mình.  Nhưng ta không thể chánh niệm về cái ta sẽ trở thành.  Nó không có thực.  Nó chỉ là những giấc mơ ban ngày.  Nó chỉ là mơ ước và hy vọng.  Nó là điều ta muốn xuất ly.

   Trong quá trình xuất ly, ta có thể buông bỏ sở hữu, sự khẳng định của cái tôi và các vọng tưởng.  Nếu trong đời thường, ta không biết buông xả, thì ta càng khó buông xả hơn trong Thiền.  Khi Thiền định, ta phải buông xả tư duy, ước vọng, mọi phán đoán, lòng mong muốn, cầu vọng, các dục lạc.  Ta phải biết buông bỏ, nếu ta muốn hành Thiền, vì thế ta cần phải thực tập sự xả ly ở mọi lúc, mọi nơi.  Không có nghĩa là ta phải vứt bỏ mọi sở hữu hay xa lánh gia đình.  Ta chỉ phải vứt bỏ tâm bám víu, sự khẳng định mình qua những thứ đó.

   Xuất ly có nhiều hình thái.  Nó có thể là sự tự khắc kỷ như dậy sớm hơn thường lệ, xả bỏ khuynh hướng muốn được hưởng thụ.  Xuất ly cũng có nghĩa không phải lúc nào muốn ăn thì ăn, mà phải chờ đến lúc thật sự đói.  Khi từ giả cuộc đời, ta phải buông bỏ mọi thứ.  Ta không thể mang theo của cải hay người thân mà ta coi là của chúng ta, cũng như không thể mang theo thân của mình.  Tốt hơn hết là ta nên hiểu về cái chết trước khi nó đến.  Đó là lý do tại sao người ta thường vật vã trước giờ ra đi.  Một số ít người có thể ra đi một cách bình thản, nhưng phần đông không thế, vì họ chưa sẳn sàng để buông bỏ tất cả.  Trước đó, họ chẳng bao giờ nghĩ đến giờ phút nầy.

   Tất cả những gì ta bám víu vào là một trở ngại, một vật cản.  Thí dụ như nếu tôi cứ ôm mãi chiếc gối nầy, không chịu bỏ ra, thì tôi sẽ gặp trở ngại khi bước ra cửa.  Thực tế, ta thường bám víu vào người khác và điều đó cần phải buông bỏ.  Không có nghĩa là ta phải xua đuổi người khác.  Nhưng có nghĩa là ta phải đoạn diệt thái độ bám víu của ta với người khác, đó mới chính là trở ngại lớn nhất.  Nếu ta không sửa đổi theo hướng đó, việc hành Thiền của ta cũng bị trở ngại thôi, vì ta cũng sẽ bám víu vào tư tưởng, hy vọng, ước muốn của ta.  

   Chúng ta có thể vẫn ở trong căn nhà của mình, vẫn mặc quần áo đó, vẫn không có gì thay đổi về hình dáng bề ngoài, nhưng bên trong ta đã xuất ly được những dính mắc của mình.  Không có nghĩa là ta không còn thương yêu gia đình của mình nữa.  Ngược lại, tình thương mà không có sự bám víu, sở hữu là loại tình thương không có lòng sợ hãi, hoàn toàn thuần khiết.  Trong khi tình thương với lòng bám víu, sở hữu là một cực hình.  Nó bao gồm những làn sóng tình cảm và thường tạo nên những hàng rào kẻm gai vô hình.  Tình yêu thật sự là tình yêu không có sự sở hữu, được cho mà không mong đợi một sự trả lại.  Nó cho ta cảm giác có người đứng cận kề nhưng không dựa vào ta.

 4.   TRÍ TUỆ

   Muốn đi đúng hướng trong cuộc đời ta cần có nghiệp thiện kế tiếp là trí tuệ.  Bổ sung cho trí tuệ là đức tin.  Đức tin và trí tuệ là hai đức tính không thể tách rời.  

   Đức Phật đã so sánh Đức tin như một người khổng lồ mù với một gã nhỏ bé, tàn tật với đôi mắt cực sáng là Trí tuệ.   Đức tin đã nói với Trí tuệ rằng: ‘Tôi rất mạnh, nhưng tôi không thấy đường đi tới.  Còn anh yếu đuối, nhưng mắt anh thì tinh.  Hãy đến ngồi lên vai tôi.  Hai chúng ta hợp lại thì nơi nào mà ta không đến được’.  Lòng tin mù quáng có thể dời non, nhưng nó sẽ không biết dời ngọn núi nào.  Trí tuệ không thể thiếu để chỉ đường cho lòng tin.  Trí tuệ có đôi mắt nội tâm thật sáng suốt.

   Trí tuệ là một đức tính khá đặc biệt, vì ta không thể đạt được trí tuệ nếu không có tâm thanh tịnh.  

   Trí tuệ phát triển qua ba giai đoạn.  Đầu tiên là sự học hỏi sẽ mang đến kiến thức.  Ta có thể có được kiến thức qua nhà trường, sách vở, và qua lời nói của các bậc uyên thâm.  Sau đó ta phải suy gẫm về những điều đã học hỏi được để chúng trở thành một phần của nội tâm ta.  Như khi thực phẩm vào cơ thể ta, những gì cơ thể không sử dụng sẽ bị thải ra ngoài.  Những thứ khác sẽ được đưa vào máu, tạo ra năng lực.  Cũng thế với kiến thức.  Ta có thể tiêu hóa kiến thức, thải bỏ những gì ta không cần đến và đưa những cái bổ ích vào máu.  Chúng sẽ dần dần chuyển đổi để tạo nên trí tuệ, cũng như đồ ăn được tiêu hóa dần chuyển đổi thành nhiên liệu để giúp cơ thể sinh tồn.  Đây là sự chuyển đổi nội tâm và không đòi hỏi ta phải nghiền ngẫm, tiêu hóa hàng tấn kiến thức.  Nó không đòi hỏi số lượng, mà cần chất lượng, cũng như đồ ăn vào cơ thể của ta vậy.

   Suy gẫm, hấp thụ những điều ta học hỏi được trước khi tiêu hóa chúng.  Điều nầy đòi hỏi phải có tâm hành, đó là một phần quan trọng trong sự trưởng thành, cũng như đồ ăn vật chất đúng chất lượng là yếu tố quan trọng cho cơ thể tăng trưởng.  Nếu không có sự hoạt động của nội tâm đối với những điều Phật dạy, thì những điều đó vẫn là lời của Phật, của Tăng.  Chúng sẽ không bao giờ là của ta, dầu ta có lập đi, lập lại biết bao nhiêu lần.  Trừ khi ta nghiền ngẫm, hấp thụ, tiêu hóa được những điều ta đã học hỏi, ta mới có thể chuyển đổi chúng thành trí tuệ nội tâm.

   Càng có nhiều trí tuệ, ta càng dễ có một đời sống bình an không có nhiều biến động lên xuống.  Thiếu trí tuệ, ta sẽ thấy lúng túng, khó xử trước nhiều hoàn cảnh.  Đôi khi phải một thời gian sau ta mới thoát ra khỏi.  Nếu có trí tuệ ta đã không phải lâm vào cảnh khó xử đó rồi.  Hơn nữa, nếu bên cạnh trí tuệ còn có thêm lòng tin thì nó càng thêm sức mạnh.  Lòng tin rộng lớn đầy sức mạnh, không có gì có thể lay chuyển được.  Cộng thêm đôi mắt sáng của trí tuệ, chúng sẽ đưa ta đến đích cuối cùng.

   Chỉ có trí tuệ, không có lòng tin, đôi khi đưa ta đến cái nhìn hai chiều.  Đối với vấn đề gì, thắc mắc gì ta cũng nhìn theo hai chiều.  Nó không có sự gắn bó bên trong như đối với lòng tin.  Lòng tin không cần dựa vào một thứ gì ở bên ngoài.  Lòng tin mà dựa vào yếu tố bên ngoài nào đó, thì lòng tin đó không bền vững, vì nó cần yếu tố đó để hiện hữu như một chứng minh, không thể nghi ngờ gì.  Không ai có quyền được nghi ngờ về những gì họ tin vào.  Lòng tin hữu hiệu nhất là lòng tin vào chính khả năng thành công của mình.  Thêm nữa, lòng tin có thể phát sinh khi ta đã chọn được con đường đi đúng.  Đó là niềm tin không thể lay chuyển vào Pháp, cộng với con mắt sáng của trí tuệ.

 5.  TINH TẤN

   Kế tiếp là năng lực hay tinh tấn, mà ta có thể so sánh với nhiên liệu để cho máy chạy.  Chúng ta phải tự chế ra nhiên liệu cho mình.  Đó cũng là một trong bảy yếu tố của Giác Ngộ, nên ta có thể thấy sự quan trọng của nó như thế nào.

   Năng lực có thể được sử dụng dưới nhiều hình thức.  Người ta có thể bỏ ra rất nhiều năng lực để trở thành một nhà tỷ phú hay để xây một ngôi nhà hay để lợi dụng lòng tốt của ai.  Tất cả những việc ta làm đều cần có năng lực.

   Năng lực có thể khiến ta lăng xăng.  Chạy từ việc nầy qua việc nọ, nghĩ thứ nầy, thứ kia.  Nó có thể mang ta từ nơi nầy của thế giới đến nơi khác, cố tìm cho được cái gì có thể làm thỏa mãn nó.  Nếu không sử dụng năng lực đúng chổ, nó sẽ mang đến những hậu quả tiêu cực.  Chính tự nó không toàn diện.  Nó chỉ là nhiên liệu, còn bổn phận của ta là tìm cho nó một chiếc xe đúng loại.

   Đức Phật đã nói về năm yếu tố tâm linh và so sánh chúng với một đoàn ngựa kéo một toa xe với một con ngựa đầu đàn và hai cặp theo sau.  Con ngựa dẫn đầu là chánh niệm và nó có thể đi nhanh theo sức của nó.  Nó không cần phải cân xứng, chờ đợi ai.  Chánh niệm là đầu đàn, là điều quan trọng nhất.  Không có nó, toa xe không thể đi tới.  Nhưng hai cặp ngựa còn lại phải cân xứng nhau. Cặp thứ nhất là năng lực phải cân xứng  với chú tâm.  

   Sự chú tâm giúp ta ổn định.  Nhưng nếu chỉ có chú tâm mà không có năng lực, sẽ khiến ta hôn trầm.  Làm ta trở nên trơ đá, không xúc cảm. Loại chú tâm nầy không ích lợi gì.  Nó cần có năng lực để giữ thăng bằng.  Nhưng có năng lực mà không có chú tâm thì cũng vô ích vì nó có thể khiến ta quá lăng xăng đến nổi, lúc nào ta cũng phải làm cái gì đó.

   Năng lực phải có định huớng.  Không lợi ích gì nếu chỉ đổ nhiên liệu vào xe, nổ máy nhưng không biết phải đi đến đâu.  Làm thế chỉ lãng phí nhiên liệu thôi phải không?  Trên thế giới việc khủng hoảng năng lượng cứ liên tục xảy ra, vì thế thật đáng xấu hổ, nếu ta góp tay vào việc làm lãng phí nhiên liệu, có phải không?  Chúng ta cần phải biết rõ chiếc xe của ta cần đi về hướng nào.  Nó cần có một hướng đi duy nhất thôi.  Thẳng tiến đến sự lớn mạnh để đạt được sự tỉnh thức cao hơn, thậm sâu hơn.

   Khi ta lớn lên cái nhìn của ta bao quát hơn.  Khi đã đạt được sự trưởng thành về trí tuệ và tâm linh, ta có thể nhìn mọi thứ như một người đứng trên cao nhìn xuống, những gì xảy ra ở dưới đường không ảnh hưởng đến ta.  Dầu có lụt lội, hạn hán, động đất trên quả đất của ta, hay có đĩa bay trên không trung, sự tỉnh thức của ta cũng không hề bị ảnh hưởng.  Có cái nhìn của con chim ở trên tầng không, ta có thể nhìn mọi vật một cách tổng quát chứ không phải cá thể.  Trong khi nếu ta ở phía dưới, tất cả những gì ta có thể thấy được là căn phòng nầy.

   Cũng thế đối với cái nhìn bên trong.  Cái nhìn hạn hẹp chỉ có thế thấy được cái gì ngay trước mắt nó: cái đau của thân, sự sợ hãi, lo lắng cho tương lai, tiếc thương cho quá khứ, yêu, ghét người quanh ta.  Ta chỉ có thể thấy những thứ như thế vì cái nhìn không được phát triển.  Nhưng khi cái nhìn đã thay đổi, ta có thể thấy là đau khổ bao trùm mọi thứ, ta không còn phải lo âu, sợ hãi nửa vì ta biết rằng tương lai và quá khứ là một.  Chỉ có giây phút hiện tại.

   Năng lực cần phải nhằm đến một hướng, chăm chăm vào một việc mới mong có kết quả.  Chúng ta phải hao hụt một phần lớn năng lực tinh thần trong Thiền định: năng lực duy nhất trong vũ trụ nầy.  Tất cả mọi vật chất chỉ là kết quả của năng lực tinh thần.  Khi ta đã tu Thiền một thời gian, sự tiêu tốn năng lực không còn làm ta mệt mỏi.  Trái lại là khác.  Ta cảm thấy như hấp thụ được nguồn năng lực mới qua Thiền định.

   Để làm chủ các bản năng, đòi hỏi phải có năng lực.  Sống theo bản năng là cuộc sống của loài thú.  Con người hơn loài thú vì có khả năng tư duy, vậy mà ta vẫn bắt gặp không ít những phản ứng có tính cách bản năng ở bản thân và ở người.  Vì bản tính của con người là phản ứng theo bản năng, ta cần phải có nhiều năng lực để chế ngự chúng.  Những gì có vẻ tự nhiên đối với ta -đến với ta một cách dễ dàng- là những cái ta cần chế ngự.  Chỉ sống buông trôi theo bản năng sẽ đem lại đau khổ cho ta.  Chuyển đổi từ một người tầm thường thành một người cao quý (ariya) là những bước đến với sự giải thoát.  Cần phải có nhiều năng lực để chế ngự cách sống theo bản năng và phản ứng một cách tầm thường trần tục.

   Tất cả những gì ta làm đều cần có năng lực.  Sự quyết tâm là bước khỏi đầu, nhưng năng lực giúp ta tiến bước.  Và ta chỉ có thể tiến bước không chần chừ nếu ta biết rõ hướng đi của mình.  Người có thể làm được như thế là những người có thể đạt được nhiều thứ hơn người khác và luôn được người khác ngưỡng mộ.  Không có gì to tát cả.  Họ chỉ là những người giỏi điều khiển năng lực của mình.

 6.   KIÊN NHẪN

   Kế tiếp là kiên nhẫn.  Nếu trong cuộc sống hằng ngày, ta không có lòng kiên nhẫn, ta sẽ luôn âu lo, khó thể an tâm.  Ta sẽ cố làm những việc vô ích với hy vọng thúc đẩy công việc của ta mau chóng có kết quả. 

   Sự thiếu kiên nhẫn chứng tỏ ta có tâm chấp Ngã vì ta muốn mọi việc xảy ra theo như ta dự tính.  Hơn nữa ta lại muốn chúng xảy ra vào khoảng thời gian ta mong mỏi.  Ta chỉ nghĩ đến những suy nghĩ, dự định của mình.  Ta quên là còn có nhiều yếu tố khác, nhiều nhân duyên liên hệ khác.  Quên rằng ta chỉ là một trong hằng tỉ người trên quả đất nầy, và quả đất nầy chỉ là một chấm nhỏ trong tinh cầu, và còn có hằng ha sa số các tinh cầu khác nữa.  Vì tư lợi của mình, ta quên đi những điều ấy.  Ta chỉ muốn mọi việc xảy ra theo ý mình ngay lập tức.  Khi mọi việc không xảy ra theo sự suy nghĩ, xếp đặt của mình, người thiếu kiên nhẫn thường trở nên giận dữ.  Đó là một vòng tròn oái oăm của sự thiếu kiên nhẫn và sân hận.  

   Lòng kiên nhẫn có một giá trị nội tâm.  Ta nhận thức được rằng ta có thể dự tính nhưng kết quả không thể chắc chắn được.  Đôi khi đó lại là một việc tốt hay do nghiệp quả của ta.  Ta cần phải biết chấp nhận những trở ngại nầy.  Nếu ta không thể chấp nhận những gì xảy ra trong cuộc đời mình, thì ta càng thêm đau khổ.  Ai cũng từng kinh qua đau khổ, nhưng khi ta không biết chấp nhận, thì sự chống cự, phản kháng càng làm khổ đau tăng lên gấp bội.  Như khi ta đấm tay vào một vật cứng, tay ta sẽ bị đau.  Nhưng nếu ta tựa tay nhẹ nhàng vào cánh cửa hay bức tường ta sẽ  không thấy đau.  Phản kháng hay mong muốn đều là nguồn gốc của khổ đau.

   Người kiên nhẫn có cái nhìn tổng thể hơn, họ có thể nhìn thấy sự vật thay đổi, chuyển động và trôi theo dòng chảy.  Có những sự việc ngày hôm nay ta thấy khó chấp nhận, thì ngày mai, hay tháng sau, năm sau, ta thấy chúng cũng bình thường.  Có những việc năm ngoái ta thấy quá cấp thiết, không thể thiếu trong cuộc sống, thì hôm nay chúng không có ý nghĩa gì nữa với ta.  Suy nghĩ như thế giúp ta thản nhiên trước bất cứ việc gì có thể xảy ra. Nếu sự việc xảy ra không như ta dự tính, ta cũng có thể nhìn chúng như một phần của dòng đời lên xuống.

   Những đức tính nầy chỉ có thể vun trồng trên mãnh đất mầu mỡ của nội tâm.  Nội tâm ẩn náo bên dưới sự ươm trồng của trí tuệ và năng lực cần thiết để đi đúng hướng, trong khi kiên nhẫn và xuất ly cần có để đối trị với ngã mạn, vì tất cả đều vô thường, khổ và vô ngã.  

   ‘Nội tâm’ trong ngôn ngữ Phật giáo có nghĩa là sự suy gẫm thậm sâu về ba đặc tính trên: vô thường, khổ và vô ngã.  Chúng không ngừng xảy ra.  Chỉ có sự chú tâm của ta đối với chúng là có thể ngừng lại.  Ta thường tìm cách trốn tránh chúng.  Ta không thích vô thường, khổ và vô ngã, nên ta phản kháng lại chúng.  Ta từ chối sự hiện hữu của chúng, và luôn nghĩ ra đủ mọi cách để trốn tránh chúng.  Nhưng cách trốn chạy hữu hiệu nhất là chấp nhận, thấu hiểu và thâm nhập chúng vào đời sống của ta, đó cách giải thoát duy nhất, vĩnh cửu.  Tất cả những cách khác đều chỉ là sự trốn chạy tạm thời, không đi đến đâu, ngoài việc dẫn ta trở lại điểm bắt đầu.

   Trước hết ta cần phải có kiên nhẫn với chính mình.  Nếu không, ta không thể có kiên nhẫn với ai cả.   Nếu không có kiên nhẫn với chính mình, tức là ta không biết tự quí trọng mình.  Ta phóng đại về khả năng của mình, sự quan trọng của mình, rồi khi sự việc không xảy ra như ta dự tưởng thì ta tức giận.  Thí dụ như ta nghĩ là ta phải Giác Ngộ lâu rồi, hay ta có thể tọa thiền trong hai tiếng đồng hồ không nhúc nhích, hay có thể Thiền đến độ không cần ngủ nghĩ.  Đủ thứ ‘phải’.  Sự mong mỏi đó ta cũng đem áp dụng cho mọi người khác, và ta trở nên thiều kiên nhẫn với sự thiếu sót của họ.

   Tuy nhiên cũng không nên đồng hóa tính kiên nhẫn với sự dễ dãi.  Một người rất kiên nhẫn có đức tính đáng yêu của sự chịu đựng.  Nhưng nếu không có đủ trí tuệ và nghị lực nội tâm, lòng kiên nhẫn đó dễ dàng xuống cấp trở thành sự dễ dãi, buông xuôi khi nghĩ rằng có làm gì cũng vô ích, là một điều không đúng sự thật.  Sao cho rằng vô ích, khi ta khéo léo, đức hạnh.  Vấn đề là ta cần phải có trí tuệ để biến kiên nhẫn thành một đức tính.  Dầu biết chấp nhận thực tế cuộc đời không như ta dự tính, ta vẫn phải có quyết tâm và năng lực để chuyển hướng về những điều tốt đẹp hơn.

   Trong khi một kẻ buông xuôi có thể nhìn y phục của mình và nói: ‘Dơ rồi.  Nhưng ta có thể làm được gì chứ?  Tất cả y phục rồi cũng sẽ bị dơ’.  Đó là một thí dụ cực đoan.  Giống như một người nhìn quanh phòng rồi nói: ‘Phòng dơ quá.  Mà phòng nào rồi cũng dơ”.  Hay có người quan sát nhà mình rồi nói: ‘Nước sơn đã bạc màu rồi.  Mà có sơn lại rồi cũng bạc màu’.  Đó là thái độ để mọi việc xảy ra mà không có quyết tâm hay năng lực cần thiết để chuyển đổi mọi việc cho tốt hơn, ở hình thức hay nội tâm.  Nếu ta tự xét thấy có điểm yếu kém rồi ta nói: ‘Oâi, còn làm gì được nữa?  Ai không tham lam, sân hận’ và rồi để mọi việc buông xuôi.  Như thế chưa đủ tốt. 

   Mặt khác, nếu ta nhận thấy tánh tham sân trong con người mình, ta trở nên thiếu kiên nhẫn, điều nầy cũng chẳng ích lợi chi.  Tất cả mọi thứ đều cần thời gian.  Từ vô thủy ta đã lập đi lập lại những tánh xấu nầy.  Ta cần phải có thời gian để thay đổi.  Kiên nhẫn rất cần thiết, nhưng buông xuôi thì không.

 7.   CHÂN THẬT

   Tiếp theo là chân thật, và đức tính nầy có nhiều khía cạnh.  Đầu tiên và tiên quyết là ta phải nói sự thật.  Đó là giới luật thứ tư - không nói dối.  Nhưng còn hơn thế nữa.  Ta cần phải tự khám  phá mình với sự chân thật rốt ráo ở nội tâm.  Đó là một việc khó thực hiện.  Ta cần có trí tuệ để nhận biết lỗi mình, không phải của người.  Tìm lỗi của người không khó.  Lỗi của người khá hiển nhiên.  Nhưng để tìm ra lỗi của mình, đó là điều khó làm, ta cần sự thật  thậm sâu và một nội tâm chân thật.

   Điều đó giống như tự mổ xẻ bên trong, tự chất vấn mình.  Khi câu hỏi đầu tiên được trã lời, ta lại phải đặt câu hỏi về câu trã lời đó, ‘Tại sao tôi lại hành động như thế?  Tại sao tôi lại có những cảm thọ đó?  Tại sao tôi phản ứng như thế?’  Cuối cùng các câu trã lời đều đưa về một ‘cái ngã’, nếu ta đã tự phân tích mình đầy đủ.  

   Các phản ứng dễ dãi như ‘Ôi, đó chỉ là cái tôi, tôi không thể làm gì khác hơn’, hay ‘Đó là nghiệp của tôi rồi’, không ích lợi gì.  Cả hai thái độ đều vô hiệu quả, vì nếu ta đã thật sự tự phân tích mình rốt ráo, và đã nhận ra đó là do ngã mà ra, thì ta phải tìm cách tháo gở sự bám víu vào cái ngã.

   Rất khó nhìn ta như người khác nhìn ta.  Ta phải đặt một tấm gương trước mặt, không phải để soi hình dáng bề ngoài, mà là để theo dõi sự hình thành của tâm sinh lý của ta.   Tấm gương đó gọi là chánh niệm.  Đôi khi cách người khác đối xử với ta cũng tạo nên một tấm gương, nhưng không hẳn là một tấm gương trung thực vì có cái tôi của họ nằm trong đó.  Do đó, công việc chính của ta lả phải tự chất vấn mình thôi.

   Sự thực có nhiều mặt khác.  Biết được sự thật tức là biết được bốn sự thật cao quý (tứ diệu đế) và đó là Pháp chân thật.  Nhận biết được bốn sự thật cao quý đó có nghĩa là ta đã quan sát chúng bằng cái nhìn  nội tâm: sự thật về khổ, sự thật về nguồn gốc của khổ (tập đế) là tham sân; sự thật về chấm dứt khổ đau (diệt đế), nghĩa là sự giải thoát; và sự thật về phương tiện chấm dứt khổ đau (đạo đế), đó là bát chánh đạo.  Tóm lại sự thật chỉ có nghĩa như thế.

   Tất cả các chân lý cuối cùng phải dẫn ta đến sự tự do, giải thoát.  Người ta có thể đi tìm chân lý bằng nhiều cách khác nhau, qua nhiều lý thuyết học.  Có nhiều lý thuyết đáng kinh sợ vì nó dạy người ta đàn áp tầng lớp người nầy và tôn vinh tầng lớp khác.  Nhóm khác lại nói về sự đàn áp và chủ nghĩa tối thượng.  Tất cả là do tâm con người tạo ra.  Tâm u mê sẽ đặt lý thuyết của mình dựa trên ảo tưởng về ngã chấp, do đó chúng không thể nào đem lại sự thỏa mãn hoàn toàn. 

   Đi tìm chân lý là một điều nên làm, người trẻ nên đeo đuổi theo chân lý và người già không nên ngừng nghỉ.  Đáng buồn thay, sự tìm kiếm chân lý có bị gián đoạn.  Con người bị ràng buộc vào quá nhiều bổn phận hằng ngày vì mục đích sinh tồn, đến nỗi sự tìm kiếm chân lý có vẻ vượt quá khả năng của họ.  Họ không còn đủ năng lực hay ý chí.  Thật đáng tiếc khi người trẻ không có đủ trí tuệ để khám phá ra sự thật đằng sau mọi việc, còn người già thì không còn đủ năng lực.  Như Bernard Shaw đã nói: “Tuổi trẻ bị lãng phí bởi những người trẻ tuổi”.

| Chia sẻ |
THẢO LUẬN  
Chưa có thảo luận nào

Tin cùng loại cũ hơn