Thống kê truy cập

Số lượt truy cập: 2.827.111
Tổng số Thành viên: 53
Số người đang xem:  7

VÔ NGÃ VÔ ƯU . Chương 6

Đăng ngày: 22/02/2014 15:01
Thiền Quán Về Phật Đạo Tác Giả: Ni sư Ayya Khema - Người Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh Dịch từ bản tiếng Anh: Being Nobody, Going Nowhere - Meditations On The Buddhist Path Wisdom Publications 1987
Chương 6
Năm Chướng Ngại

   Phần lớn chúng ta đều nghe danh hiệu Ma Vương.  Đều biết đến Ma vương bằng cách nầy hay cách khác.  Nó chính là sự cám dỗ.  Nó cám dỗ chúng ta vào các con đường tội lổi.  Ma Vương đến khi Đức Phật ngồi dưới cây Bồ đề tĩnh tâm tìm sự giải thoát.  Rõ ràng Ma Vương không phải là hình ảnh của lũ quỷ với lửa đỏ tuôn tràn ra hai lổ tai, lôi kéo ta xuống địa ngục.  Ma Vương là sự cám dỗ đang ngự trong lòng ta.  Nếu Ma Vương có thể đến quấy rầy Đức Phật trước khi Ngài chứng đắc Niết bàn -dấy khởi cám dỗ trong lòng Ngài- thì kể gì đến chúng ta?

    Điều khác biệt là Phật nhận biết đó là Ma Vương -Sự cám dỗ.  Ngài biết, trong khi chúng ta thì không.  Chúng ta lý giải và biện hộ cho nó.  Tôi đã nhìn thấy những dòng chữ dán trên một chiếc xe hơi như sau: “Cái gì đem lại cho ta sự thoải mái, cái đó đúng”.  Nhưng có bao nhiêu điều, bao nhiêu thứ đem lại khoái lạc cho ta mà hoàn toàn sai, có người còn coi việc sát hại người khác là niềm vui.

   Sự cám dỗ trong lòng ta là ô trược của chính chúng ta, chúng ẩn nấp ở đó để sẳn sàng tạo ra thêm tội lổi. Vì chúng ta không thích thú nhận rằng tâm thân ta ô uế cần được tẩy sạch, ta tìm đủ mọi lý lẻ để biện hộ cho các hành động của mình: ‘Tôi cũng có quyền được hưỡng thụ chứ’”, “Đó là điều tôi ước muốn, nên hẳn là tôi rất cần”.

   Sự cám dỗ có thể nói là luôn có mặt trong ta, nhưng vì không nhận ra nó, ta luôn ở trong tình thế bối rối, khó xử.  Ta luôn bị nó lôi kéo vào thứ nầy, thứ kia.  Thí dụ ngay bây giờ: ta biết tốt hơn hết là ngồi đây nghe Pháp, nhưng cám dỗ bảo: giấc ngủ cũng tốt vậy?  Nếu không có người chung quanh, chắc là ta đã trèo lên giường ngủ rồi.

   Ma Vương luôn kề cạnh bên ta.  Nó kêu gọi ta làm những gì mang lại sự thoải mái, khoái lạc, mà không nhận ra rằng tất cả các khoái lạc do ngũ dục mang đến chỉ tạm thời, không thực có. 

   Đức Phật dạy rằng có năm trạng thái tình cảm là kẻ thù của mọi người: năm chướng ngại hay năm triền cái.  Tất cả chúng ta đều có, tất cả chúng ta đều bị chúng cám dỗ.  Hai trạng thái đầu là tồi tệ nhất, đem đến những hậu quả trầm trọng nhất.

  1.   THAM

   Kẻ thù đầu tiên là ái dục hay tham.  Là kẻ thù khó nhận diện nhất vì nó được chấp nhận rộng rãi  trong xã hội. Tất cả các mục quảng cáo, trên truyền hình, trong các cửa hiệu, các cửa kính đều nhắm vào việc khơi dậy lòng ham muốn trong ta.  Thật vậy, con người càng thỏa mãn được các ham muốn có xe to, nhà mới, quần áo đẹp, họ càng được xem là thành công trong xã hội.  Vì việc thỏa mãn các ham muốn đem lại những sung sướng nhất thời, nó làm ta lầm tưỡng nó là điều tốt.  “Điều gì đem lại cho ta sự thoải mái, điều đó hẳn là đúng”.  Nó có hào quang giả tạo của nó.  Không ai trách được người luôn cố gắng để thỏa mãn các ham muốn của họ.  Chính chúng ta còn chưa biết mình đang làm gì.  Thật kỳ lạ khi con người hoàn toàn không biết mình đang làm gì.

 Với kẻ thù thứ hai -sân hận- thì trái ngược lại. Nó luôn bị trách móc.  Nó không mang lại lạc thú gì. Mọi người đều chối bỏ nó. Tuy rằng đôi khi chúng ta cũng tìm cách biện hộ cho nó.  ‘Tôi tức giận vì cô đó, anh kia, họ... làm những chuyện đáng giận quá’.  Nhưng Sân không được xã hội chấp nhận, vì sân không mang lại sự thoải mái.  Do đó sân không tạo ra ảo giác nó là điều tốt.  Sân hận, ghét bỏ, oán giận, sợ hãi, bứt rứt, thảy đều là phiền não, và người có tánh hay giận dữ thường bị kẻ khác phiền trách.

   Lòng ái dục khi được thỏa mãn ít nhiều gì cũng mang đến cho ta sung sướng, khoái lạc.  Dầu vậy nó cũng là kẻ thù đáng ghê sợ như sân hận.  Chúng chỉ là hai mặt của một đồng tiền.  Có thứ nầy thì phải có thứ kia đi kèm theo.  Dục vọng dấy khởi những ham muốn thường khó thỏa mãn được.  Chúng ta không thể có tất cả những gì ta muốn.  Càng có nhiều ham muốn, càng dễ bị thất vọng.  Từ đó người ta trở nên sân hận vì không thể có được điều mình ước muốn.  Không ai lúc nào cũng có thể thỏa mãn hết tất cả các ước muốn của mình.  Điều đó thật là không tưỡng.

   Aùi dục và sân là hai kẻ thù gây nhiều khốn khó cho chúng ta trong đời sống hằng ngày cũng như gây nhiều trở ngại cho việc tu Thiền của ta.  Nếu có ai đó tự hỏi -mà tôi chắc là có rất nhiều- tại sao họ thường gặp trở ngại khi tu thiền, nhất là với người mới tu tập, thì đây là những lý do.

   Dục Vọng là kẻ nói ‘Tôi thích ngồi thoải mái hơn’.  Dục vọng là kẻ nói: ‘Tôi muốn đi ngủ’.  Dục vọng là kẻ nói: ‘Tôi muốn chuyện vãn.  Tôi thích đi dạo một chút. Nóng quá. Tôi phải đi tắm.  Đói quá. Tôi cần ăn một thứ gì đó. Khát quá. Tôi phải uống gì đó. Tôi khó chịu quá, làm sao ngồi thiền’.  Đó là tiếng nói của dục vọng, lúc nào cũng đòi hỏi thứ nầy, thứ nọ.

   Aùi dục sẽ ngưng đòi hỏi khi kinh nghiệm thiền định mang lại cho ta nhiều thích thú hơn sự thỏa mãn các dục vọng.  Khi Thiền định mang đến hạnh phúc, an lạc, lúc đó các dục vọng sẽ biến mất khi ta ngồi thiền.  Không phải là mãi mãi, mà chỉ trong khoảng thời gian ngắn đó.

   Vì khi sinh ra chúng ta đã có các giác quan, nên ta muốn nuôi dưỡng chúng.  Giống như ta muốn nuôi dưỡng thân.  Nếu không, ta sẽ bịnh.

   Trước khi các nhà phi hành đầu tiên được gửi lên phi thuyền, một trong những phương pháp được dùng để huấn luyện họ ở Mỹ là một căn phòng không có sức hút, nên không có xúc chạm.  Phòng cách âm và không có gì để nhìn.  Mọi thứ đều có màu xám.  Những món đồ ăn vô vị được chuyển tới bằng những ống dẫn.  Họ được dặn là khi nào không chịu đựng nổi nữa, họ có thể rung chuông ra hiệu.  Hình như người chịu đựng được lâu nhất là tám tiếng.

   Thực phẩm sẽ ngon hơn nếu có sự kích thích của các giác quan, ta đã quen như thế.  Sự quen thuộc, bám víu nầy tạo cho ta cái aỏ giác rằng đây là điều tối hệ trọng, đây là hướng ta phải theo -nhìn cảnh đẹp, nghe những âm thanh dễ chịu,  nếm mùi vị ngon, ngửi mùi thơm, những xúc chạm mang đến sự dễ chịu và nghĩ đến những điều làm ta thích thú. 

   Một cách sống như thế -và tất cả những người chưa được nghe pháp, không tu tập thiền đều vướng phải- không thể mang đến thành công.  Đó là châu báu của kẻ dại khờ.  Nó nhấp nháy sáng, nhưng nó chẳng có giá trị gì, vì nó quá ngắn ngủi.

   Hãy tưỡng tượng bạn được ăn một buổi thật ngon, bạn tấm tắc: ‘Ngon. Thật là ngon’.  Một người bạn nói: ‘Nếu ngon vậy, xin mời bạn cứ tiếp tục ăn.  Bạn có thể ở đây ăn đến sáng hôm sau’.  Lúc đó cái ngon thành khổ thân, khổ tâm.  Một bữa ăn dù ngon mấy chỉ có thể thưỡng thức trong 20 hay 25 phút là cùng.  Cũng vậy,   vào một ngày nóng nực, bạn muốn được tắm mát.  Khi được tắm, bạn thích thú nói: ‘Tuyệt quá.  Tôi thấy mát mẻ, dễ chịu làm sao’.  Lúc đó, người bạn lại nói:  ‘Nếu thế, sao bạn không ở trong đó thêm 5 hay 6 tiếng nữa?’  Nếu làm thế thì hành xác còn gì.  Không ai muốn làm thế.  Mười phút, mười lăm phút tắm là cùng.

   Đối với tất cả mọi ham muốn khác cũng thế.  Sự thích thú sẽ biến mất khi nó được kéo dài ra. Nó biến thành cực hình.  Vậy mà tất cả chúng sanh đều chạy đuổi theo các lạc thú ngắn ngủi đó. Người ta tìm lạc thú trong rượu, nhưng khi say rượu làm sao còn có được cảm giác vui thú nào.  Tất cả những hạnh phúc con người tìm kiếm qua thỏa mãn các giác quan của mình đều dẫn đến sự thất bại. Các cảm thọ chỉ là sự biểu lộ cụ thể của các giác quan như  -tai, mắt, mủi, lưỡi, thân.  Không có gì đặc biệt về chúng, không có gì tội lỗi hay không tội lỗi.  Các cảm thọ không tạo ra nghiệp tốt hay xấu.  Nghiệp xấu được tạo ra bên trong ta khi tâm muốn duy trì hoặc tìm lại các cảm giác khóai lạc.

   Có người tìm các cảm giác khoái lạc qua các hành động như uống rượu, hành hung người khác, hút sách, tình dục.  Đây là những khoái cảm thấp hèn, tội lỗi.  Kẻ khác lại tìm cảm giác thích thú trong việc ngắm hoa, nhìn mặt trời lặn, nghe âm nhạc.  Đây cũng là lạc thọ nhưng cao thượng hơn.

   Khổ đau dấy khởi khi ta muốn chiếm hữu, giữ chặt, hưỡng thụ các cảm giác khoái lạc đó mãi.  Khi nhìn thấy một bông hoa đẹp, ta thường muốn ngắt hái cho riêng mình.  Sao không để chúng đó cho mọi người ngắm nhìn? Không. Tôi muốn chiếm hữu tất cả những gì đẹp đẽ.

   Khi con người biết sống thanh cao hơn, các cách hưỡng thụ cũng sẽ cao đẹp hơn .  Một cảm giác hưởng thụ có thể rất bình thường, nhưng nó trở nên nguy hiểm khi đi đôi với lòng ham muốn. Sự ham muốn -lòng khao khát- mang đến phiền não vì lòng ham muốn không bao giờ có thể được thỏa mãn.  Chúng ta luôn cảm thấy thiếu thốn.  Lúc nào cũng có cái đẹp hơn để nhìn, nhiều điều hay hơn để nghe, để xúc chạm.  Lúc nào cũng có một cái gì khác để ta chạy đuổi theo.  Điều nầy khiến ta trở nên chộn rộn, bứt rứt vì ta chẳng bao giờ được hoàn toàn thỏa mãn.

   Khi trong lòng ta không được an bình, ta đổ lổi cho hoàn cảnh quanh ta.  Ta nghĩ phải có một cái gì đó tuyệt diệu hơn cần được khám phá.  Vì thế, ta đi khắp thế giới để tìm kiếm.  Một việc chẳng khó khăn gì hiện nay.  Chỉ cần cái vé máy bay.  Người ta đi đó, đi đây để tìm kiếm những xúc cảm mới, cảnh vật mới,  kinh nghiệm mới.  Thu thập kinh nghiệm đã trở nên một phong trào.  Nhưng rồi ta cũng không vừa lòng, vì kinh nghiệm nhanh chóng qua đi.  Không có kinh nghiệm gì còn ở lại.  Tất cả đã qua.  Tất cả đã thành ký ức.  Không có gì có thể được lưu giữ.  Sưu tầm tem thư có lẻ còn ích lợi hơn là lưu trữ kinh nghiệm.  

   Aùi Dục đã được Đức Phật ví như mắc nợ.  Nếu bạn mua nhà, bạn vay tiền ngân hàng, mỗi tháng bạn phải đến đó để trã tiền vay và tiền lãi.  Nhưng với nợ nhà, dần dần ta còn trả hết.  Chứ với dục vọng, không có chuyện sẽ dứt nợ.  Dục vọng dấy lên tiếp, tiếp nhau.  Chẳng bao giờ dứt.  Ta luôn đói. Luôn khát.  Ta luôn muốn được nhìn, nghe, nếm, xúc chạm thêm lần nữa.

   Đức Phật cũng ví nó với một người lữ hành không phương hướng.  Anh ta đói khát.  Nhìn thấy trước mặt là một ngôi làng, mừng rở, anh thầm nghĩ, ‘À, kìa có ngôi làng để ta xin đồ ăn, thức uống’.  Nhưng khi đến nơi, đó chỉ là một ngôi làng hoang vắng.  Anh lại tiếp tục kiếm tìm.  Lại một ngôi làng bỏ phế nữa.

   Lòng hy vọng và ước đoán về việc thỏa mãn các dục vọng làm dục vọng thêm hấp dẫn.  Nhưng khi đã thỏa mãn, tất cả đã qua đi, ham muốn khác lại dấy khởi lên.

   Đức Phật cũng so sánh dục vọng như một cái hồ với nhiều màu sắc được trộn vào đó. Lòng khao khát dục vọng hiện ra dưới nhiều dạng, bao trùm cả tâm trí sáng suốt của ta.  Đó là nỗi khổ của ta.  Ta bị cuốn hút bởi lòng ham muốn, và không còn thấy gì khác có thể quan trọng hơn.  Ta chỉ thấy có sự ham muốn và cơ hội để thỏa mãn nó.  Ta tự đánh mất mình.

   Đức Phật đã cho ta rất nhiều ẩn dụ về lòng tham dục.  Nhưng ẩn dụ quan trọng nhất, trước tiên là phải hiểu rằng dục vọng là kẻ thù có thể đánh quỵ ta, tạo ra nỗi sợ hãi không đạt được điều mình mong muốn, lòng ganh ghét đối với người được điều ta mong muốn -ghen ghét, ganh tỵ - và những trạng thái tâm hồn bất ổn, đau khổ mà ta không thể có nếu như không có lòng muốn cái người khác có.     
   
   Ta phải hiểu đó là nguồn gốc của bao phiền não của con người:  mong muốn được có các cảm giác dễ chịu, thích thú, mong muốn được thỏa mãn, nhưng thường ta không đạt được chúng, hay nếu có được cũng chẳng bao giờ có thể giữ chúng mãi.  Buông bỏ ham muốn, có nghĩa là buông bỏ thất vọng.  Nhưng điều đó không thể thực hiện chóng váng bằng lời nói, hay suy nghĩ xuông.  Đó là một quá trình huân tập lâu dài.  Bước đầu tiên là phải biết ngồi trong tư thế không được thoải mái.  Không được nghiêng ngửa, đổi thế ngồi để cho bớt khó chịu.  Không thể trốn tránh sự đau khổ.  Không thể thoát khỏi đau khổ bằng cách ấy.  Chỉ có một cách duy nhất là buông bỏ ham muốn. Phải hoàn toàn dứt bỏ chúng.

   Sự khó chịu trong tư thế ngồi thiền là cơ hội để ta kiểm soát các dục vọng của mình.  Nếu ta không tìm hiểu chúng từ tư thế nầy, ta sẽ khó thể biết về chúng cách nào khác.  Không thể học ở trường học, giảng đường.  Cũng không ai dạy ta về chúng ở gia đình.  Ở đó, ai cũng đang tìm mọi cách để được sung sướng, thoải mái.  Nếu bạn có thể ngồi thoải mái, đó cũng là điều tốt.  Nhưng nếu bạn ngồi một cách khổ sở, điều đó cũng không xấu.  Tựu trung là bạn đang có cơ hội để tu tập ngay ở nơi chân, hay lưng hay bất cứ nơi nào. 

   Ước muốn được thoải mái và xoay trở để đạt được điều nầy chính là việc mà mọi người đang làm ở khắp mọi nơi.  Và họ phải mất khá nhiều thời gian, tiền bạc cho điều đó.  Đó là lý do tại sao người ta làm tăng ca, đi du lịch, tìm kiếm các thú giải trí, cũng là để thoát ra khỏi sự đau khổ, phiền não. Nhưng đó là điều vô ích.  Tại sao ta đi tìm những cái vô ích?  Vì một khi ta vừa thoát ra khỏi các phiền não, bực bội nầy, thì lập tức phiền não, bực bội khác lại dấy lên.  Khi một thú tiêu khiển vừa dứt, sự chán nản, buồn bả lại đến.  Chân mặt vừa dễ chịu vì bạn vừa chuyển thế ngồi, thì chân trái lại đau nhức.  Thật là dại khờ để chạy theo những điều vô ích đó.  Tốt hơn là nên làm theo Pháp.  Pháp đã được chứng nghiệm là sự thật.  Đức Phật đã chứng nghiệm điều đó và tất cả những người giác ngộ sau Ngài cũng đã chứng nghiệm điều đó. 

   Buổi chiều, khi bao tử bạn kêu đói, tâm liền khởi nghĩ:  ‘Không biết có nên bỏ ăn buổi tối không?’  Hoặc tâm đã lăng xăng chạy nghĩ đến nhà bếp với những món bạn có thể làm, đó là dục vọng.  Nếu tâm đang cố gắng chống cự lại sự cám dỗ thì bạn đã bị dục vọng lôi cuốn.  Nhưng nếu bạn có thể nhìn vào sự đòi hỏi vừa dấy lên, mỉm cười và nói: ‘Đấy đúng là cám dỗ của Ma Vương’ thì bạn đã thấy được Pháp.  Không cần phải nghe nhiều, đọc nhiều về Ma Vương.  Chỉ cần nhận biết nó khi nó xuất hiện vì nó không có nơi nào khác để hoạt động trừ ngay trong chính mỗi chúng ta.  Nó rất sung sướng được ngự trị trong ấy vì chúng ta luôn tòng phục theo nó.  

   Một trong những điều mà Đức Phật khuyên răn nhằm chế ngự sự tham dục là tiết độ trong ăn uống.  Và đó là lý do tại sao có giới luật không ăn sau 12 giờ trưa.  Tiết độ ăn uống không có nghĩa là không ăn uống gì.  Mà chỉ ăn đủ để giữ sức khỏe cho cơ thể.  Nhưng sự ham muốn nầy rất dễ được thỏa mãn, vì thế nó liên tục dấy khởi.  Đối với một số người có khi bốn, năm hay sáu lần ăn trong một ngày.  Nếu chúng ta có khả năng chống lại được một ham muốn, chúng ta sẽ có khả năng để chống lại những ham muốn khác.  Vì thế để bắt đầu, ta nên chọn sự ham muốn mà ta dễ dàng chịu thua và nó luôn dấy khởi, đó là tiết chế sự ăn uống. 

   Một thứ thuốc giải độc khác để chữa trị dục vọng mà Đức Phật khuyên ta nên theo là nhìn sự vật từng phần hơn là tổng thể.  Có lẻ ta chẳng lạ gì với chuyện nhìn cơ thể với ba mươi hai phần:

   Trong thân thể nầy, từ gót chân trở lên, từ đỉnh đầu trở xuống đều được bao bọc bởi đảy da hôi thối; trong cơ thể nầy có tóc trên đầu, lông trong người, móng tay, răng, da, thịt, gân, xương, tủy xương, thận, tim, gan, màng mạc, tỳ tạng, phổi, ruột già, ruột non, cổ họng, phân, mật, đờm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, chất nhờn trên da, nước miếng, đờm giải, dung dịch ở các khớp, nước tiểu và óc.

   Nếu bạn có lòng ưa thích một người nào đó, thay vì nhìn vẻ đẹp bề ngoài của họ, hãy nhớ đấy chỉ là lớp ‘giấy gói quà’ màu sắc bên ngoài, bên trong con người đó có bao nhiêu phần nhỏ khác.  Ba mươi hai phần của cơ thể với ‘tóc trên đầu, lông trong người, móng tay, răng, da, thịt...’.  Vì thế thay vì nhìn vẻ ngoài đẹp đẽ, chỉ nên nhìn răng?

   Có câu chuyện về một tăng sĩ, có lẻ là một vị A la hán cùng thời vời Đức Phật.  Có một đôi vợ chồng cãi nhau rất dữ dội, và sau đó người vợ không còn muốn ở với chồng mình nữa.  Cô mặc tất cả những quần áo đẹp nhất, đeo các vàng bạc, nữ trang quí gía nhất khi bỏ trốn đi vì cô muốn đem theo tất cả của cải.  Người chồng rượt đuổi theo, nhưng không bắt kịp, có lẻ vì người vợ đã bỏ đi sớm hơn anh ta tưỡng.  Khi người đàn ông chạy trên đường tìm kiếm vợ, anh ta gặp vị sư nầy.  Anh liền đến để hỏi nhà sư có gặp một người đàn bà tóc đen, đẹp đẽ, mặc một chiếc sari đỏ, với rất nhiều trang sức quí giá chạy trên đường không? Nhà sư trã lời “Tôi không trông thấy người đàn bà nào, chỉ thấy một hàm răng chạy qua thôi”. 

   Có lẻ nhìn được như nhà sư hơi khó cho chúng ta, nhưng câu chuyện đã nói lên được điều Đức Phật muốn răn dạy chúng ta:  Đừng nhìn toàn bộ, thì có ai sẽ yêu đương nổi một hàm răng.  Ai đam mê nổi một bao tử?  Thí dụ như khi ta khởi lòng ham muốn một chiếc xe đắc tiền, nếu ta chỉ nhìn dáng vẻ bề ngoài của nó, màu sắc của nó, ta dễ bị sa ngã phải mua chiếc xe ấy, để rồi phải trả nợ trong vòng hai chục năm.  Nhưng nếu ta nhận ra rằng chiếc xe ấy cũng chỉ được tạo ra bởi tay lái, bàn đạp ga, bộ máy, ống lọc không khí, với bao nhiêu là bù lon con táng trong đó, thì chắc ta không đến nỗimê đắm  chiếc xe đó vì những bộ phận rời rạc đó, cũng như không thể mê đắm một người nào đó vì từng bộ phận của họ. 

   Đối với người dễ bám theo các vẻ đẹp bề ngoài, có lẻ cần thiền quán về các bộ phận của chính thân mình.  Chúng ta cũng được làm bởi ba mươi hai bộ phận đó.  Không ai khác ai.  Nều bỏ lớp da bọc ngoài, tất cả mọi người đều giống nhau.

   Liều thuốc giải độc cho cả năm chướng ngại -năm kẻ thù của ta- là có bạn tốt và nói điều tốt.  Có được những người bạn mà ta có thể trao đổi về phương cách để áp dụng Pháp Phật vào đời sống thường ngày, chứ không phải loại bạn để nói về thời tiết, chính trị, đàm tiếu về người khác.  Thiện tri thức rất quan trọng trong cuộc đời ta.  Khi Ananda, người em bà con của Đức Phật và là thị giả của Ngài, nói: “Bạch Thế Tôn! Có được một người bạn tốt là có được nửa cuộc đời thánh thiện”.  Phật bảo: “Không phải thế A-nan.  Một người bạn tốt là cả  cuộc đời thánh thiện”.  Không  có gì có thể thay thế một người bạn tinh thần.  Đó là người quan trọng nhất trong đời bạn- người nhắc nhở ta đi trên đường chánh đạo.

   Vấn đề là phải nhập tâm.  Khi ta nhớ những điều nầy, ta có thể làm được, nhưng nhiều lúc ta quên.  Những cuộc đàm đạo hữu ích với thiện tri thức giúp chúng ta luôn soi lại lòng mình, và nhận ra rằng phần lớn vấn đề của chúng ta xuất phát từ lòng ham muốn, từ dục vọng của chúng ta.

   Ta không muốn ăn các chất độc hại.  Ta không muốn cơ thể ta chứa đầy những thứ độc hại.  Cũng thế, ta không nên bỏû đầy tâm trí ta với các chuyện nhảm nhí, độc hại.  Tâm ta chỉ nên chứa những chuyện về Pháp, chuyện tốt, những câu chuyện làm ta phấn khởi, giúp đỡ ta, xoa dịu ta, làm ta an lạc, chữa lành cho ta, và quan trọng nhất là giúp ta thấy được con đường để thoát ra khỏi những vấn đề làm khổ não tất cả chúng sanh.  

   Nếu chúng ta may mắn có được những người thiện tri thức ở quanh ta, thì cách bày tỏ lòng biết ơn tốt nhất là trở thành một thiện tri thức đối với người khác.  Là bạn tốt giống như phản ứng dây chuyền.  Bạn không nên chỉ đi tìm bạn tốt.  Chính bạn cũng nên là bạn tốt.

    2.   SÂN

   Chúng ta luôn phải đối đầu với bao kẻ thù.  Vì chúng trụ ở bên trong ta, ta khó nhận ra chúng.  Do đó trước hết ta phải ngó lơ chúng để chú tâm vào việc thanh tịnh hóa tâm, dần dần chúng không còn là một phần của ta nữa.

   Con đường tâm linh, con đường thanh tịnh hóa, đoạn diệt, tự do là con đường dẫn ta đến sự thay đổi bản tánh của mình.  Nếu ta không bắt đầu bằng bước đó,  ta sẽ không thể bước vào thế giới thanh tịnh.  Mọi thứ khác đều là ngoại giới, chỉ có bản tánh là nội tâm.  Mặc dầu ngoại giới có thể đẹp đẽ, có thể mang cho ta cảm giác thoải mái, nhưng chúng không thể thay đổi nội tâm ta.  Và chỉ có sự thay đổi đó mới phân biệt được một người cao cả với người bình thường.  Người bình thường hành động theo sự sai bảo của bản năng.  Người cao cả chuyển hóa chúng. 

   Chướng ngại thứ hai cũng như các tội lổi khác gây bao điều tai hại cho ta đó là sân hận, nóng giận.  Mức độ nóng giận có thể nặng, nhẹ.  Khi bùng nổ ra ngoài, khi gậm nhấm bên trong.  Khi nó được bộc lộ ra lời, thường làm người khác cũng sinh giận dữ.  Từ đó gây ra cãi vả trong gia đình, xích mích ở xóm giềng.  Nảy sinh ra oán thù giữa các cộng đồng, chiến tranh giữa các quốc gia hay trên cả thế giới.  

   Tất cả mọi thứ đều bắt đầu từ trong tâm ta, nên ta phải nhận ra rằng thế giới không phải là tha nhân.  Mà mỗi chúng ta là một thế giới, do đó trừ khi ta tự tìm thấy an bình trong chính tâm ta, ta sẽ không thể tìm thấy điều đó ở đâu khác.  Không cần kể là người khác đang tức giận, bực bội, sai quấy hay ngã mạn.  Không có gì đáng kể cả.  Điều quan trọng chính là thái độ của chúng ta trong hoàn cảnh đó.  Không thể có sự an ổn tuyệt đối trên thế giới nầy.  Dưới thời Đức Phật đã không có.  Dưới thời các vĩ nhân, các vị thánh đã không có.  Trái lại, lịch sử đã bày cho ta thấy bao nhiêu cảnh tranh giành thế lực chính trị, chiến tranh, anh em xâu xé nhau.

   Sự bình an duy nhất ta có thể có được là sự bình an tự trong trái tim ta.  Sự  an lạc Đức Phật đã tìm thấy cho chính mình, lại âm vang đến cả thế giới.  Ngài là người đã tìm thấy an bình với chính mình, với thế giới và sự an bình đó vẫn tồn tại cho đến ngày nay, hơn hai mươi lăm ngàn năm sau trong Pháp của Ngài.  Năm trăm triệu người trên thế giới đã thệ nguyện làm đệ tử của Ngài.    
  
   Rõ ràng là nghiệp của chúng ta không giống nhau.  Nhưng nếu ta có thể truyền cho người thân trong gia đình, sự an bình, tự tại trong tâm ta, cũng đã quá tốt.  Đó cũng là một thành tích có phải không?  Khi tất cả mọi người trong gia đình đã được truyền cho sự bình an, thì an bình cũng có thể lan truyền đến hàng xóm, láng giềng.  Được thế càng tốt hơn.  Ta không cần phải là Phật mới có thể ảnh hưởng sâu xa đến người khác.

   Ảnh hưởng sâu xa chỉ có thể nẩy sinh khi trong tâm ta chỉ có sự bình an, tâm không còn dấy khởi sân hận.  Chỉ có các vị A la hán mới đoạn diệt được hết các niệm sanh ra sân hận. Dầu vậy nếu ta có thể kiềm chế sân hận vẫn hơn lúc nào cũng giận dữ, cãi lẩy, hờn oán, thương tổn, trách móc người khác.

   Sân hận dấy khởi do ta cảm thấy bị thương tổn, đau đớn, và phản ứng của con người lạ lùng thay, là cũng gây đau đớn lại cho người khác. Ta sẽ không thể sửa đổi, nếu như không nhận biết điều đó.  Nhưng không phải ai cũng gây đau đớn cho người khác, có người tự gây thương tích cho mình.  Họ nuốt giận, chôn giấu nó, nhưng nó vẫn sôi sục ở bên trong.  Và rồi tất cả sự giận dữ đó sẽ phát lộ ra bằng các chứng bịnh, thiếu nghị lực, trầm uất, tiêu cực, thiếu hỉ lạc và bình an.

   Rất ít người chúng ta gặp trên đường phố có nét mặt vui vẻ, hạnh phúc.  Bạn có nhận thấy không?  Không chỉ ở đây mà ở khắp nơi: Sidney, London, Amsterdam hay Paris.  Bất kể ở đâu, con người đều giống nhau. 

   Những đau đớn ta đã kinh nghiệm trong cuộc đời, mà ta luôn phải chống trả, tạo cho ta cái ý nghĩ là nếu ta trả đủa lại, thì sự đau đớn, tổn thất của ta sẽ giảm đi.  Sự thật thì trái lại, điều đó chỉ làm cho sự đau đớn tăng lên gấp bội. 

   Đức Phật đã so sánh sân hận như bịnh sôi mật.  Khi bạn giận dữ  -và tôi đoán chắc rằng không ai thóat khỏi- bạn hiểu cảm giác đó thế nào?  Cảm giác khó chịu -vậy mà ta cứ mãi sân hận.  Nếu đó không là kỳ quái, thì là cái gì?  Giống như người tự đánh mình, mỗi lần đánh đều thấy đau, nhưng vẫn cứ lập đi, lập lại.   
   Đức Phật cũng ví giận dữ giống như cầm than đỏ bằng tay không, chọi vào kẻ khiến ta sân giận.  Ai sẽ phỏng trước?  Dĩ nhiên là người giận.

   Ngài cũng ví sân hận như cái hồ trong đó nước sôi sục.  Nếu nước sôi, ta không thể có một mặt hồ tĩnh lặng để soi mình vào đó.  Khi ta giận dữ, ta không còn biết tất cả vì mục đích gì, sự tỉnh thức của ta bị chìm lấp.  Ta quên hết mọi thứ, chỉ còn biết cơn giận của mình.  Nếu lúc đó ta có thể nhìn vào kiếng thì gương mặt ta nhìn thấy sẽ xấu xí biết bao.  Nhưng lúc đó không ai còn thì giờ để nhìn vào kiếng.  Họ bị cuốn lấp trong cơn giận.

   Đức Phật dạy khi sân hận dấy khởi, điều đầu tiên ta nên nhớ là ‘Ta là chủ nghiệp ta’.  Sự nhắc nhở đó rất quan trọng ở giây phút căng thẳng nhất.  ‘Tôi làm chủ nghiệp của tôi, nên nếu như tôi tức giận, tôi sẽ lãnh nghiệp báo của hành động đó’.  Bất kể người kia đã làm gì cho bạn giận.

   Có một câu chuyện rất hay về Khantivàdin, vị thầy của sự kiên nhẫn.  Hay vì nó mô tả được sự vô lý của lòng giận dữ.   Vua Kausala là một vị vua rất giàu.  Oâng có rất nhiều vợ.  Một ngày kia vua báo cho các bà vợ là ông muốn đi chơi ở ngoại thành.  Các người đấu bếp sửa soạn thức ăn, đầy tớ lo sửa soạn voi, quân lính sửa soạn quân phục.

   Sáng hôm sau cả triều đình, vua và đoàn tùy tùng ra đi.  Đến một khu rừng có những thảm cỏ thật đẹp, họ dừng lại. Nhà vua ăn, và uống quá nhiều.   Ngay sau bữa ăn, Ngài thiếp ngủ.  Các bà vợ bảo nhau:  “Đây là dịp cho chúng ta dạo chơi quanh đây, vì có mấy khi ta được ra tới bên ngoài”.  Nói rồi, họ dắt nhau đi bắt bướm, ngắm cây cảnh, tận hưỡng vẻ đẹp của khu rừng.

   Không lâu họ đến căn lều của vị Thầy của lòng kiên nhẫn mà họ hằng nghe tiếng, Ngài Khantivàdin (Khanti -lòng kiên nhẫn, vàdin - Thầy).  Tất cả họ đều bái lạy, xin Ngài ban cho những lời chỉ dạy.  Vị thầy vui vẻ nói cho họ nghe về các hành động thiện, lòng từ bi và rộng lượng.

   Trong lúc đó, nhà Vua tỉnh giấc, không thấy người vợ nào ở bên cạnh mình.  Nổi giận. Oâng sai lính đi kiếm các bà vợ.  Quân hầu trở về báo là họ đang ngồi nghe giảng thuyết.  Nhà vua không nghe lý lẻ gì, ông sai quân gọi các bà vợ về và bắt vị thầy Kiên nhẫn trói vào gốc cây.  

   Sau đó nhà vua rút gươm giận dữ đến nói với Khantivàdin “Đồ khốn kiếp, sao nhà ngươi dám dụ dổ các bà vợ của ta?”. Ôâng chém vào chân của vị thầy và hỏi: “Bây giờ thì lòng kiên nhẫn của ông ở đâu?”  Khantivàdin trã lời: “Thưa Ngài, nó không nằm ở chân tôi”.  Nhà vua càng tức giận, càng chém vị thầy và tiếp tục hỏi cùng câu hỏi, trong lúc vị thầy cứ trã lời giống như cũ. 

   Khi Khantivàdin sắp chết, các quân lính quì xuống xin Khantivàdin “Xin Ngài hãy thương xót, chúng con không có lổi, chính nhà vua là người đã ra lịnh”.  Và Khantivàdin trã lời: “Không. Ta không oán hận ai.  Ta cầu mong cho nhà vua sống lâu và hạnh phúc”.  Nói rồi vị thầy chết.  Theo câu chuyện sau đó nhà vua bị đất lấp chết.

   Câu chuyện đã cho ta thấy dù có bị cắt ra từng mảnh, vị Thầy cũng không tỏù gì giận dữ.  Có lẻ điều đó khó chấp nhận đối với chúng ta.  Rõ ràng Khantivàdi là một vị A la hán vì khi ông nói “Lòng kiên nhẫn của tôi không có ở trong bàn chân của tôi”, ông muốn chứng tỏ rằng dù cho sự đau đớn thể xác có như thể nào, tinh thần ông vẫn không nao núng.  Đối với chúng ta, điều đó thật khó tưỡng tượng.  Sự đau đớn của thân luôn ảnh hưởng đến tâm ta. Nếu ta có thể nhớ được câu chuyện nầy cũng như lời của Đức Thế Tôn dạy: “Kẻ nào không làm giống như thế, không hiểu Pháp của ta”, ta sẽ hiểu rằng lòng sân hận là chính là tội nghiệp ta tự gây ra cho mình. Chẳng phải do hành động của tha nhân.

   Hiểu được như thế, ta sẽ  dễ sửa đổi nếu như ta tỉnh thức và ý thức được khi nào sân hận dấy khởi.  Sự tỉnh thức giống như bàn thắng trên xe hơi.  Thử tưỡng tượng sự nguy hiểm của một chiếc xe không có thắng.  Không có sự tỉnh thức, cuộc đời ta cũng nguy hiểm như thế đấy.  

   Mỗi khi sân hận nổi lên, ta đạp thắng ‘tỉnh thức’, và ta biết rằng mình vừa ‘phạm tội’.  Biết rằng ta vừa làm một việc chẳng tốt đẹp, lợi lộc gì.  Dựa vào các nhận thức nầy, ta có thể làm giảm bớt khá nhiều sức mạnh của cơn giận, giống như khi đạp thắng, ta đã giảm bớt được tốc độ của xe, đi chậm lại.  Biết rằng sân hận là không tốt, cũng có thể làm thay đổi cả quá trình giận dữ, đôi khi còn làm vô hiệu hóa nó.  Ta có thể quan sát khi một sự giận dữ đã bị vô hiệu hóa, để nhận ra sự vô ích của cơn giận.  Bạn sẽ nhận ra sự đau đớn mình tự gây ra cho mình, và sự u mê khi tự mình làm mình đau khổ.

   Sự u mê lớn nhất của con người là tự làm khổ mình bằng chính những hành động của mình.  Cần phải có quyết tâm sửa đổi để một ngày nào đó -có thể hôm nay, năm tới hay một cuộc  đời khác- để không tự gây đau khổ cho mình nữa.  Hãy ngưng phản ứng một cách tiêu cực đối với bất cứ việc gì xảy ra quanh ta, vì ta biết rằng tất cả chúng ta đều ô trược, tội lổi, và chính sự ô trược đó khiến cho phiền não sinh ra.

   Cả thế giới nầy đều ô trược.  Thật vậy, hãy thử cầm một tờ báo như Newsweek.  Bạn thấy gì?  Không có gì ngoài tội lỗi, ô trược.  Nếu chúng ta nhận thấy được cả thế giới đều bị nhiễm ô uế, thì tại sao ta không rẽ vào con đường chánh định, không để mình đi theo đoàn xiếc tội lổi?  Tại sao ta không tách ra khỏi đám đông và quan sát vạn pháp dưới mọi khía cạnh?  Chúng ta chỉ có thể hành động như thế khi ta không còn có những phản ứng tiêu cực trong đó tệ hại nhất là lòng giận dữ và oán ghét.

   Con người không bao giờ hết nói bậy, làm bậy.  Chỉ khi nào ta có thể huân tập cho mình luôn sống trong Pháp thì ta mới mong sửa đổi được.  Nếu ta phải đối mặt với việc làm sai trái, thái độ bất nhã, ích kỷ, đòi hỏi ta nhiều hơn ta có thể cho, thì đã sao?  Quan trọng là sự bình an và hạnh phúc trong lòng ta.  Tất cả mọi thứ khác đều là phiền não, không nên có, mà ta lại thường tự gán vào mình.  Tất cả các phiền não khổ đau nầy  phát sinh là do hành động của chúng ta, nhưng ta lại có khuynh hướng đổ lỗi cho người khác là nguyên nhân tạo tác.  Ta nổi giận nên ta đổ cho người làm ta giận.  Ta buồn rầu nên ta đổ cho người khác hay hoàn cảnh làm ta buồn rầu. Nhưng ta quên rằng nếu trong ta không có sẳn các mầm móng, khuynh hướng giận dữ hay buồn rầu, thì không thể xảy ra chuyện gì cả.  

   Giống như món đồ chơi trẻ con Jack-in-the-box, là một cái hộp trong đó có một búp bê hình nộm mà hể ta vừa chạm tay tới cái nắp, lập tức hình nộm nhảy phóc ra khỏi hộp.  Nhưng nếu ta lấy hình nộm ra khỏi hộp, thì dù ta có dùng búa để đập nắp hộp cũng không có gì xảy ra.  Không có gì ở bên trong đó, thì dù có nguyên nhân tạo tác nào cũng không có gì ở bên trong để bật ra ngoài.

   Cách duy nhất để tìm sự an bình cho chính mình, tìm con đường đưa đến giải thoát, là tu sửa mình, không phải thay đổi thế giới bên ngoài.  Mọi người phải tự sửa đổi chính mình.  Đức Phật không thể thay đổi chúng ta.  Nhưng Ngài chỉ chúng ta phương cách tu sửa.  Chúng ta phải tự mình hành động thôi. Càng bắt đầu sớm càng nhanh chóng có cơ hội tìm hạnh phúc cho chính mình mà không phải phụ thuộc vào bất cứ thứ gì ở bên ngoài chúng ta.

   Không mấy ai được tất cả mọi thứ trong cõi đời nầy.  Ai cũng có những điều bất như ý. Hoặc là nhà cửa chật chội, lương bổng thấp kém hay bà con họ hàng xích mích, hay hàng xóm quá ồn ào, hay không có bằng cấp cao....  Lúc nào cũng có việc gì đó rục rặc.  Không ai có một hoàn cảnh hoàn toàn như ý cảû, nhưng nếu chúng ta không bắt đầu sửa đổi mà chỉ ngồi chờ đợi hoàn cảnh tốt hơn thì chúng không bao giờ xảy ra cả.  Môi trường lý tưởng chỉ có thể hiện hữu trong tâm chúng ta.  Điều đó có thể thực hiện được. 

   Đức Phật bảo cõi người là cõi tốt nhất để tu giải thoát.  Vì chúng ta có những nỗikhổ, bất như ý

| Chia sẻ |
THẢO LUẬN  
Chưa có thảo luận nào

Tin cùng loại cũ hơn