TÔN TƯỢNG THIÊN THỦ THIÊN NHÃN BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM

Đăng ngày: 25/02/2014 22:00
.

 
Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket

Photobucket

 

Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Ðại Viên Mãn 
Đại Bi Tâm Ðà La Ni

 

Như thế tôi nghe, một thời đức Phật Thích Ca Mâu Ni (2) ngự nơi đạo tràng Bảo Trang Nghiêm, trong cung điện của Quán Thế Âm Bồ Tát ở tại non Bổ Đà Lạc Ca (3) , đức Phật ngồi nơi tòa sư tử, tòa này trang nghiêm thuần bằng vô lượng ngọc báu tạp ma ni (4) , xung quanh treo nhiều tràng phan bá bảo.
Khi ấy, đức Như Lai ở trên pháp tòa, sắp muốn diễn nói môn tổng trì Ðà ra ni (5) , có vô lượng số Bồ Tát ma ha tát (6) câu hội, các vị ấy là: Tổng Trì Vương Bồ Tát, Bảo Vương Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Hoa Nghiêm Bồ Tát, Đại Trang Nghiêm Bồ Tát, Bảo Tạng Bồ Tát, Đức Tạng Bồ Tát, Kim Cang Tạng Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát (7) , Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (8) ...
Những vị Bồ Tát như thế đều là bậc quán đảnh đại pháp vương tử (9) . Lại có vô lượng vô số đại Thanh văn đều là bậc A La Hán (10) , tu hạnh thập địa câu hội. Trong ấy, ngài Ma Ha Ca Diếp (11) làm thượng thủ. Lại có vô lượng Phạm Ma La Thiên (12) câu hội. Trong ấy, ngài Thiện Tra Phạm Ma (13) làm thượng thủ. Lại có vô lượng chư thiên tử ở cõi trời Dục giới câu hội. Trong ấy, ngài Cù Bà Dà thiên tử (14) làm thượng thủ.
Lại có vô lượng hộ thế tứ Thiên vương câu hội (15) trong ấy, ngài Đề Đầu Lại Tra (16) làm thượng thủ. Lại có vô lượng Thiên, Long, Dạ xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, Nhơn, Phi Nhơn (17) câu hội. Trong ấy, ngài Thiên Đức đại Long vương làm thượng thủ. Lại có vô lượng chư Thiên nữ ở cõi trời Dục giới câu hội, trong ấy, ngài Đồng Mục Thiên nữ làm thượng thủ.
Lại có vô lượng Thần Hư không, Thần Giang hải, Thần Tuyền nguyên, Thần Hà chiểu, Thần dược thảo, Thần Thọ lâm, Thần xá trạch, Thần cung điện, cùng Thủy thần, Hỏa thần, Địa thần, Phong thần, Thổ thần, Sơn thần, Thạch thần v.v.. đều đến tập hội.
Bấy giờ, đức Quán Thế Âm Bồ Tát ở trong đại hội, mật phóng ánh thần thông quang minh, chiếu sáng mười phương sát độ và cõi tam thiên đại thiên thế giới này đều thành sắc vàng. Từ Thiên cung, Long cung cho đến cung điện của các vị tôn thần thảy đều chấn động. Biển cả, sông nguồn, núi Thiết Vi (18) , núi Tu Di (19) , cùng thổ sơn, hắc sơn, cũng đều rung động dữ dội. Ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, tinh tú, và châu báu và lửa đều bị ánh kim quang rực rỡ kia lấn át làm cho ẩn mất không hiện.
Lúc đó, ngài Tổng Trì Vương Bồ Tát thấy tướng trạng hy hữu ấy, lấy làm lạ cho là việc chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay, dùng lời kệ hỏi Phật, để biết tướng thần thông kia do ai làm ra, kệ rằng:
Ai thành chánh giác trong ngày nay? 
Khắp phóng ánh sáng như thế này. 
Mười phương sát độ thành sắc vàng, 
Cả cõi đại thiên cũng như vậy. 
Ai được tự tại trong ngày nay? 
Phổ diễn thần lực ít có này. 
Không ngằn cõi Phật đều rung động, 
Cung điện long thần cũng long lay. 
Sức thần thông này ai làm ra, 
Là ánh quang minh đấng Phật Đà. 
Là của Bồ tát, đại Thanh văn, 
Hay trời Đế Thích, cùng Phạm ma? 
Nay trong chúng hội đều sanh nghi, 
Chẳng biết đây là nhân duyên gì? 
Muốn cầu hiểu rõ, tâm thành kính, 
Hướng trông về ngôi đại từ bi.
Đức Phật bảo Tổng Trì Vương Bồ Tát:
"Thiện nam tử! Các ông nên biết trong pháp hội này, có vị Bồ Tát Ma Ha Tát, tên là Quán Thế Âm Tự Tại, từ vô lượng kiếp đến nay đã thành tựu tâm đại từ bi, lại khéo tu tập vô lượng Đà la ni môn. Vị Bồ Tát ấy vì muốn làm cho chúng sanh được lợi ích an vui, nên mới mật phóng sức thần thông như thế".
Đức Như Lai vừa nói lời ấy xong, Quán Thế Âm Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay hướng về Phật mà thưa rằng: ''Bạch đức Thế Tôn, tôi có chú Đại Bi tâm đà ra ni, nay xin nói ra, vì muốn cho chúng sanh được an vui, được trừ tất cả bịnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn từ bi doãn hứa".
Đức Phật bảo: "Thiện nam tử! Ông có tâm đại từ bi, muốn nói thần chú (20) để làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh. Hôm nay chính là lúc hợp thời, vậy ông nên mau nói ra, Như Lai tùy hỉ chư Phật cũng thế".
Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật: "Bạch đức Thế tôn! Tôi nhớ vô lượng ức kiếp về trước, có Phật ra đời, hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai, đức Phật ấy vì thương nghĩ đến tôi và tất cả chúng sanh nên nói ra môn Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, ngài lại dùng tay sắc vàng xoa nơi đầu tôi mà bảo: Thiện nam tử! Ông nên thọ trì tâm chú này và vì khắp tất cả chúng sanh trong cõi nước ở đời vị lai mà làm cho họ được sự an vui lớn.
Lúc đó tôi mới ở ngôi sơ địa, vừa nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên đệ bát địa. Bấy giờ tôi rất vui mừng, liền phát thệ rằng:
Nếu trong đời vị lai, tôi có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này, thì xin khiến cho thân tôi liền sanh ra ngàn tay ngàn mắt.
Khi tôi phát thệ rồi, thì ngàn tay ngàn mắt đều hiện đủ nơi thân, lúc ấy, cõi đất mười phương rung động sáu cách (21) , ngàn đức Phật trong mười phương đều phóng ánh quang minh soi đến thân tôi, và chiếu sáng mười phương vô biên thế giới. Từ đó về sau, tôi ở trong vô lượng pháp hội của vô lượng chư Phật, lại được nghe và thọ trì môn đà ra ni này. Mỗi lần nghe xong, tôi khôn xiết vui mừng, liền được vượt qua sự sanh tử vi tế (22) trong vô số ức kiếp. Và từ ấy đến nay, tôi vẫn hằng trì tụng chú này, chưa từng quên bỏ. Do sức trì tụng ấy, tùy theo chỗ sanh, tôi không còn chịu thân bào thai, được hóa sanh nơi hoa sen, thường gặp Phật nghe pháp. Nếu có vị Tì khưu, Tỳ khưu Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di (23) hay đồng nam, đồng nữ nào muốn tụng trì chú này, trước tiên phải phát tâm từ bi đối với chúng sanh, và sau đây y theo tôi mà phát nguyện:
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm, 
Nguyện con mau biết tất cả pháp. 
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm, 
Nguyện con sớm được mắt trí huệ. 
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm, 
Nguyện con mau độ các chúng sanh. 
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm, 
Nguyện con sớm được phương tiện khéo. 
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm, 
Nguyện con mau lên thuyền Bát nhã. 
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm, 
Nguyện con sớm được qua biển khổ. 
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm, 
Nguyện con mau được đạo giới định. 
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm, 
Nguyện con sớm lên non Niết Bàn. 
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm, 
Nguyện con mau về nhà vô vi. 
Nam mô Ðại bi Quán Thế Âm, 
Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh. 
Nếu con hướng về nơi non đao, 
Non đao tức thời liền sụp đổ. 
Nếu con hướng về lửa, nước sôi, 
Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt. 
Nếu con hướng về cõi địa ngục, 
Ðịa ngục liền mau tự tiêu diệt. 
Nếu con hướng về loài ngạ quỷ, 
Ngạ quỷ liền được tự no đủ. 
Nếu con hướng về chúng Tu La, 
Tu la tâm ác tự điều phục. 
Nếu con hướng về các súc sanh, 
Súc sanh tự được trí huệ lớn.
Khi phát lời nguyện ấy xong, chí tâm xưng danh hiệu của tôi, lại chuyên niệm danh hiệu bổn sư tôi là đức A Di Đà Như Lai (24) , kế đó tiếp tụng đà ra ni thần chú này. Nếu chúng sanh nào, trong một ngày đêm tụng năm biến chú, sẽ diệt trừ được tội nặng trong ngàn muôn ức kiếp sanh tử".
Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Nếu chúng sanh nào trì tụng thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào ba đường ác, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được sanh về các cõi Phật, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được vô lượng tam muội biện tài (25) tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại, nếu không được vừa ý, thì chú này không được gọi là Đại Bi tâm đà ra ni, duy trừ cầu những việc bất thiện, trừ kẻ tâm không chí thành. Nếu các người nữ chán ghét thân nữ, muốn được thân nam, tụng trì thần chú Đại Bi, như không chuyển nữ thành nam, tôi thề không thành chánh giác. Như kẻ nào tụng trì chú này, nếu còn sanh chút lòng nghi, tất không được toại nguyện. Nếu chúng sanh nào xâm tổn tài vật, thức ăn uống của thường trụ (26) sẽ mang tội rất nặng, do nghiệp ác ngăn che, giả sử ngàn đức Phật ra đời cũng không được sám hối, dù có sám hối cũng không trừ diệt. Nếu đã phạm tội ấy, cần phải đối mười phương Ðạo sư sám hối, mới có thể tiêu trừ. Nay do tụng trì chú Đại Bi liền được trừ diệt. Tại sao thế? Bởi khi tụng chú Đại Bi tâm đà ra ni, mười phương Ðạo sư đều đến vì làm chứng minh, nên tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt. Chúng sanh nào tụng chú này, tất cả tội thập ác ngũ nghịch (27) , báng pháp, phá người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ (28) , làm nhơ phạm hạnh (29) , bao nhiêu tội ác nghiệp nặng như thế đều được tiêu hết, duy trừ một việc: kẻ tụng đối với chú còn sanh lòng nghi. Nếu có sanh tâm ấy, thì tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu, huống chi tội nặng? Nhưng tuy không liền diệt được tội nặng, cũng có thể làm nhân Bồ đề về kiếp xa sau.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu các hàng trời, người tụng trì thần chú Đại Bi, thì không bị 15 việc chết xấu, sẽ được 15 chỗ sanh tốt.
- Thế nào là 15 việc chết xấu?
Không bị chết do đói khát khốn khổ.
Không bị chết do gông tù đánh đập.
Không bị chết vì oan gia thù địch.
Không bị chết giữa quân trận chém giết nhau.
Không bị chết do cọp sói cùng ác thú tàn hại.
Không bị chết bởi rắn rít độc cắn.
Không bị chết vì nước trôi lửa cháy.
Không bị chết bởi phạm nhằm thuốc độc.
Không bị chết do loài sâu trùng độc làm hại.
Không bị chết vì điên cuồng mê loạn.
Không bị chết do té cây, té xuống núi.
Không bị chết bởi người ác trù ếm.
Không bị chết bởi tà thần, ác quỷ làm hại.
Không bị chết vì bịnh ác lâm thân.
Không bị chết vì phi mạng tự hại.
Tụng trì thần chú Đại Bi, không bị 15 việc chết xấu như thế.
- Sao gọi là 15 chỗ sanh tốt?
Tùy theo chỗ sanh, thường gặp đấng Quốc vương hiền lành.
Tùy theo chỗ sanh, thường ở cõi nước an lành.
Tùy theo chỗ sanh, thường gặp thời đại tốt,
Tùy theo chỗ sanh, thường gặp bạn lành.
Tùy theo chỗ sanh, thân căn thường được đầy đủ.
Tùy theo chỗ sanh, đạo tâm thuần thục.
Tùy theo chỗ sanh, không phạm cấm giới.
Tùy theo chỗ sanh, thường được quyến thuộc hòa thuận, có ân nghĩa.
Tùy theo chỗ sanh, vật dụng, thức ăn uống thường được đầy đủ.
Tùy theo chỗ sanh, thường được người cung kính giúp đỡ.
Tùy theo chỗ sanh, tiền của châu báu không bị kẻ khác cướp đoạt.
Tùy theo chỗ sanh, những việc mong cầu đều được toại nguyện.
Tùy theo chỗ sanh, Long Thiên, thiện thần thường theo ủng hộ.
Tùy theo chỗ sanh, thường được thấy Phật nghe pháp.
Tùy theo chỗ sanh, khi nghe chánh pháp ngộ giải nghĩa sâu.
Nếu kẻ nào trì tụng chú Đại Bi, sẽ được 15 chỗ sanh tốt như thế! Cho nên tất cả hàng trời, người, đều nên thường tụng trì, chớ sanh lòng biếng trễ".
Khi đức Quán Thế Âm Bồ Tát nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội, chắp tay đứng thẳng, nở mặt mỉm cười, nói chương cú mầu nhiệm Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni rằng:
Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ gia. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà gia. Ma ha tát đỏa bà gia. Ma ha ca lô ni ca da, án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị gia bà lô kiết đế thất phật ra lăng bà đà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đá sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng a thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà tát đa. Na ma bà già. Ma phạt đặc đậu. đát diệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà, tát bà. Ma ra, ma ra. Ma hê, ma hê rị đà dựng. Cu lô, cu lô, yết mông. Độ rô độ rô phạt xà gia đế. Ma ha phạt xà gia đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê di hê. Thất na thất na. A ra sâm phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá giạ. Hô rô hô rô, ma ra. Hô rô hô rô hê rị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ, bồ đề dạ. Bồ đà dạ, bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na, bà dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dũ nghệ, thất bàn ra dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết a ra tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ ta bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ ta bà ha.
Nam mô hắt ra đát na đá ra dạ gia. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế thước bàn ra dạ. Ta bà ha. Án, tất diện đô, mạn đá ra, bạt đà dạ. Ta bà ha.
Bồ tát thuyết chú xong, cõi đất sáu phen biến động, trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác, mười phương chư Phật thảy đều vui mừng, thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc. Tất cả chúng hội đều được quả chứng. Hoặc có vị chứng quả Tu đà hoàn, có vị chứng quả Tư đà hoàn, hoặc có vị chứng quả A na hàm (30) , có vị chứng quả A la hán, hoặc có vị chứng được sơ địa, nhị địa, tam địa, tứ địa, ngũ địa cho đến thập địa, vô lượng chúng sanh phát lòng Bồ đề.
Khi ấy Đại Phạm Thiên vương từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay cung kính bạch với đức Quán Thế Âm bồ tát rằng: "Lành thay đại sĩ! Từ trước đến nay, tôi đã trải qua vô lượng Phật hội, nghe nhiều pháp yếu, nhiều môn đà ra ni, song chưa từng nghe nói chương cú thần diệu Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni này. Cúi xin đại sĩ vì tôi, nói hình trạng tướng mạo của đà ra ni ấy. Tôi và đại chúng đều ưa thích muốn nghe".
Quán Thế Âm Bồ tát bảo Phạm vương:
"Ông vì phương tiện lợi ích cho tất cả chúng sanh, nên hỏi như thế, nay ông khéo nghe, tôi sẽ vì ông mà nói lược qua.
Này Phạm vương! Những tâm đại từ bi, tâm bình đẳng, tâm vô vi, tâm chẳng nhiễm trước, tâm không quán, tâm cung kính, tâm khiêm nhường, tâm không tạp loạn, tâm không chấp giữ, tâm vô thượng Bồ Đề, nên biết các thứ tâm này đều là tướng mạo của môn đà ra ni này. Vậy, ông nên y theo đó mà tu hành".
Phạm vương thưa: "Tôi và đại chúng hôm nay mới hân hạnh được biết tướng mạo của môn đà ra ni này, từ đây chúng tôi xin thọ trì chẳng dám lãng quên".
Bồ tát lại nói tiếp: "Nếu kẻ thiện nam, thiện nữ nào tụng trì thần chú này, phải phát tâm Bồ Đề rộng lớn, thề độ tất cả muôn loài, giữ gìn trai giới, đối với chúng sanh khởi lòng bình đẳng, và thường nên trì tụng chớ cho gián đoạn. Lại nên ở nơi tịnh thất, tắm gội sạch sẽ, mặc y phục sạch, treo phan, đốt đèn, dùng hương hoa, cùng các thứ ăn uống để cúng dường, buộc tâm một chỗ, chớ nghĩ chi khác, y như pháp mà tụng trì. Lúc ấy, sẽ có Nhựt Quang Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát cùng vô lượng thần tiên đến chứng minh, giúp thêm sự hiệu nghiệm. Bấy giờ ta cũng dùng ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay nâng đỡ, khiến cho kẻ ấy từ đó về sau có thể hiểu suốt tất cả sách vở thế gian, thông đạt các điển tịch Vi Đà (31) và tất cả pháp thuật ngoại đạo. Chúng sanh nào tụng trì thần chú này, có thể trị lành tám muôn bốn ngàn thứ bịnh ở thế gian, hàng phục các thiên ma, ngoại đạo, sai khiến được tất cả quỷ thần. Những kẻ tụng kinh tọa thiền ở nơi non sâu, đồng vắng, bị sơn tinh, tạp mị, các quỉ vọng lượng làm não loạn phá hoại, khiến cho tâm không an định, chỉ cần tụng chú này một biến, các quỉ thần ấy thảy đều bị trói. Nếu hành giả có thể tụng trì đúng pháp, khởi lòng thương xót tất cả chúng sanh, lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả thiện thần, Long vương, Kim cang mật tích thường theo ủng hộ, không rời bên mình, như giữ gìn tròng con mắt hoặc thân mạng của chính họ".
Tiếp đó, Bồ Tát liền đọc lời kệ sắc lệnh rằng:
Ta sai Mật Tích, Kim Cang Sĩ, (32) 
Ô Sô Quân Ðồ Ương Câu thi, (33) 
Bát bộ lực sĩ, Thưởng Ca la, (34) 
Thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Ma Hê Na La Diên, (35) 
Kim Tỳ La Đà Ca Tỳ La, (36) 
Thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Bà Cấp Ta Lâu La, (37) 
Mãn Thiện Xa Bát Chân Đà La, (38) 
Thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Tát Giá Ma Hòa La, (39) 
Cưu La Đơn Tra Bán Chỉ La, (40) 
Thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Tất Bà Dà La Vương, (41) 
Ưng Đức Tỳ La Tát Hòa La, (42) 
Thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Phạm Ma Tam Bát La, (43) 
Ngũ Bộ Tịnh Cư Diêm Ma La, (44) 
Thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Thích Vương Tam Thập Tam, (45) 
Đại Biện Công Đức Bà Đát Na, (46) 
Thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Đề Đầu Lại Tra Vương, 
Các thần Mẫu nữ, chúng Đại Lực, (47) 
Thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Tỳ Lâu Lặc Xoa Vương, (48) 
Tỳ Lâu Bác Xoa, Tỳ Sa Môn, (49) 
Thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Kim Sắc Khổng Tước Vương, (50) 
Hai mươi tám bộ Ðại tiên chúng, 
Thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Ma Ni Bạt Đà La, (51) 
Táng Chi đại tướng, Phất La Bà, (52) 
Thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Nan Đà, Bạt Nan Đà, (53) 
Bà Dà La Long, Y Bát La, (54) 
Thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai Tu La, Càn Thát Bà, 
Ca Lâu, Khẩn Na, Ma Hầu La, 
Thường theo ủng hộ bên hành giả. 
Ta sai thủy, hỏa, lôi, điển thần, 
Cưu Bàn Trà vương, Tỳ Xá Xà, (55) 
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Các vị thiện thần này cùng thần Long vương, thần Mẫu Nữ đều có 500 Ðại lực dạ xoa làm quyến thuộc, thường theo ủng hộ người thọ trì thần chú Đại Bi. Nếu người đó ở nơi núi hoang, đồng vắng, ngủ nghỉ một mình, các vị thiện thần ấy thay phiên nhau canh giữ không cho tai ương, chướng nạn phạm đến thân. Nếu hành giả đi trong núi sâu, lạc mất đường về, tụng trì chú này, thiện thần, Long vương hóa làm người lành chỉ dẫn lối. Như hành giả trụ nơi núi rừng, đồng vắng, thiếu thốn nước lửa, Long thần vì ủng hộ, hóa ra nước, lửa".
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát lại vì người tụng chú, nói bài kệ thanh lương tiêu trừ tai họa rằng:
Hành giả đi trong núi đồng vắng, 
Gặp những cọp sói, các thú dữ, 
Rắn, rít, tinh mị, quỉ vọng lượng. 
Tụng tâm chú này khỏi bị hại. 
Nếu đi biển cả hoặc sông, hồ, 
Những rồng rắn độc, loài Ma Kiệt, (56) 
Dạ Xoa, La Sát, cá, rùa lớn, 
Nghe tụng chú này tự lánh xa. 
Nếu bị quân trận giặc bao vây, 
Hoặc gặp người ác đoạt tiền của, 
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
Giặc cướp khởi lòng tự thương xót. 
Nếu bị vua quan, quân sĩ bắt, 
Gông, cùm trói buộc, giam ngục tù, 
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
Vua, quan tự mở lòng ân xá. 
Nếu đi vào nhà nuôi sâu độc, 
Uống ăn để thuốc muốn hại nhau, 
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
Thuốc độc biến thành nước cam lộ, 
Nữ nhơn bị nạn khi sanh sản, 
Khổ vì ma quái làm ngăn cản, 
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
Quỷ tà sợ trốn sanh an ổn, 
Gặp rồng, dịch quỷ gieo hơi độc, 
Nóng bức, khổ đau sắp mạng chung, 
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
Bịnh dịch tiêu trừ, mạng trường cữu, 
Rồng, quỉ lưu hành bịnh thũng độc, 
Ung sang lở lói nhiều khổ đau, 
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
Khạc ra ba lần hơi độc mất. 
Chúng sanh đời trược khởi lòng ác, 
Trù ếm hại cho thỏa oán thù, 
Chí thành xưng tụng chú Đại Bi, 
Liền phản trở lại người trù ếm. 
Chúng sanh cõi trược đời mạt pháp, 
Lửa dâm dục thạnh, tâm điên đảo, 
Ngoại tình, xa vợ, bỏ chồng con, 
Ngày đêm mãi tưởng điều sai quấy, 
Nếu hay xưng tụng chú Đại Bi, 
Lửa dục tiêu trừ, tâm tà dứt. 
Công lực Đại Bi chỉ lược qua, 
Nếu ta nói hết không cùng kiếp.
Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát lại bảo Phạm vương rằng:
"Này Phạm vương! Nếu chúng sanh nào muốn tiêu trừ tai nạn ma chướng nên lấy chỉ ngũ sắc xe làm một sợi niệt, trước tiên tụng chú này 5 biến, kế tụng 21 biến, cứ tụng xong mỗi một biến lại thắt một gút, rồi đeo nơi cổ hoặc bỏ nơi đãy. Tâm chú Đại Bi đây do 99 ức hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói ra. Các đức Phật ấy vì thương xót muốn cho người tu hành: công đức lục độ chưa đầy đủ, mau được đầy đủ; mầm bồ đề chưa phát, mau được phát sanh; hàng thanh văn chưa chứng mau được chứng quả; các vị thần tiên trong cõi đại thiên chưa phát lòng bồ đề, mau được phát tâm Bồ Đề, nếu chúng sanh nào chưa được tín căn đại thừa, do sức oai thần của đà ra ni này, hột giống đại thừa tự sanh mầm và tăng trưởng, lại do sức từ bi phương tiện của ta, khiến cho sự mong cầu của họ đều được thành tựu.
Lại nữa, trong tam thiên đại thiên thế giới, những chúng sanh ở nơi ba đường ác, ở chỗ sâu kín tối tăm, nghe thần chú của ta đây, đều được lìa khổ. Các vị Bồ Tát chưa lên bậc sơ trụ, mau được siêu lên, cho đến mau chứng ngôi thập trụ. Mau đến quả vị Phật, thành tựu 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp tùy hình. Nếu hàng Thanh văn một phen được nghe qua chú này, hoặc biên chép, tu hành môn đà ra ni này, dùng tâm chất trực như pháp mà trụ, thì bốn quả Sa môn không cầu tự được. Công lực của thần chú này có thể khiến cho nước sông, hồ, biển cả trong cõi đại thiên dâng trào, vách đá, núi nhỏ, núi Thiết vi và núi Tu Di thảy đều rung động, lại có thể làm cho tan nát như bụi nhỏ, những chúng sanh ở trong ấy đều phát tâm Bồ Đề.
Nếu chúng sanh nào trong đời hiện tại muốn mong cầu việc chi, nên giữ trai giới nghiêm sạch trong 21 ngày và tụng trì chú Đại Bi, tất đều được toại nguyện. Nếu thường chí tâm trì tụng, thì từ kiếp sống chết này đến kiếp sống chết khác, tất cả các nghiệp ác đều mau tiêu diệt. Tất cả chư Phật, Bồ Tát, Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ Thiên vương, thần, tiên, Long vương, thảy đều chứng biết cho. Hàng trời, người nào thường thọ trì tâm chú này như tắm gội trong sông, hồ, biển cả, nếu những chúng sanh ở trong đó được nước tắm gội của người này dính vào thân thì bao nhiêu nghiệp nặng tội ác thảy đều tiêu diệt, liền được siêu sinh về Tây phương Tịnh Độ, hóa sanh nơi hoa sen, không còn thọ thân thai, noãn, thấp nữa. Các chúng sanh ấy chỉ nhờ chút ảnh hưởng mà còn được như thế, huống chi là chính người trì tụng? Và, như người tụng chú đi nơi đường, có ngọn gió thổi qua mình, nếu những chúng sanh ở sau được ngọn gió của kẻ ấy lướt qua y phục thì tất cả nghiệp ác, chướng nặng thảy đều tiêu diệt, không còn đọa vào tam đồ, thường sanh ở trước chư Phật, cho nên, phải biết quả báo phước đức của người trì tụng chú thật không thể nghĩ bàn!
Lại nữa, người trì tụng đà ra ni này, khi thốt ra lời nói chi, hoặc thiện hoặc ác, tất cả thiên ma ngoại đạo, Thiên, Long, quỷ thần đều nghe thành tiếng pháp âm thanh tịnh, đối với người ấy khởi lòng cung kính, tôn trọng như Phật.
Người nào trì tụng đà ra ni này nên biết người ấy chính là tạng Phật thân, vì 99 ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quý. Nên biết người ấy chính là tạng quang minh, vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình. Nên biết người ấy chính là tạng từ bi, vì thường dùng đà ra ni cứu độ chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng diệu pháp, vì nhiếp hết tất cả các môn các môn đà ra ni. Nên biết người ấy chính là tạng thiền định vì trăm ngàn tam muội thảy đều hiện tiền. Nên biết người ấy chính là tạng hư không, vì hằng dùng không huệ quán sát chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng vô úy vì thiên, long, thiện thần thường theo hộ trì. Nên biết người ấy chính là tạng diệu ngữ vì tiếng đà ra ni trong miệng tuôn ra bất tuyệt. Nên biết người ấy chính là tạng thường trụ vì tam tai, ác kiếp(57) không thể làm hại. Nên biết người ấy chính là tạng giải thoát vì thiên ma ngoại đạo không thể bức hại. Nên biết người ấy chính là tạng Dược vương vì thường dùng đà ra ni trị bịnh chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng thần thông vì được tự tại dạo chơi nơi mười phương cõi Phật. Công đức người ấy khen ngợi không thể cùng!"
Đức Phật bảo Phạm vương:
- Này thiện nam tử! Nếu kẻ nào chán sự khổ ở thế gian muốn cầu thuốc trường sanh, thì nên an trụ nơi chỗ vắng lặng sạch sẽ, kiết giới thanh tịnh và thật hành một trong các phương pháp như sau: Hoặc tụng chú v&ag

| Chia sẻ |
THẢO LUẬN  
Chưa có thảo luận nào

Tin cùng loại cũ hơn