phong thủy - Long Mạch huyệt mộ - phần 6

Đăng ngày: 09/07/2014 20:28
.

1 số truyện liên quan đến Long Mạch 

CHUYỆN THỨ NHẤT : ĐINH TIÊN HOÀNG. 

ĐINH TÊN HOÀNG là người động Hoa lư. Tương truyền , trước kia trong động có một cái đầm sâu. Thân mẫu Ông là vợ thiếp của Quan Thứ sử ĐINH CÔNG TRỨ , thường ngày hay vào đầm để tắm giặt. Một hôm , bà bị một con dái cá lớn hãm hiếp nên thụ thai , rồi khi đủ tháng , sinh ra một đứa con trai. Đinh Công rất yêu quý vì không biết rõ nguyên nhân , chỉ có một mình bà biết đó là con của dái cá . Thế rồi , cách mấy năm sau , Đinh Công qua đời , con dái cá cũng bị dân trong động bắt về ăn thịt , còn xương thì quăng một xó. Bà mẹ được tin , vội vàng chạy đến nơi , đợi cho mọi người đi khỏi , nhặt lấy xương , đem về gói ghém cẩn thận rồi để trên gác bếp , và bảo cho Ông biết đây là hàì cốt của cha. 
Còn về phần Ông đến khi khôn lớn , người rất lanh lẹ và có biệt tài bơi lặn ở dưới nước , nên đước tặng danh hiệu là ĐINH BỘ LĨNH . Trong thời gian ấy , có một Thày Địa lý bên Tàu sang nước ta xem đất , dõi theo Long mạch đến động Hoa lư. Buổi tối Thày Địa lý lần vào chỗ đó xem xét hồi lâu , đoán rằng dưới tầm đất có Thần vật , nên muốn thuê người bơi lặn giỏi xuống chỗ đó xem sao. Nguyên trong cái đầm đó , người ta đồn rằng , bên dưới có chỗ rất thiêng , xưa nay chẳng ai dám bén bảng tới. Vì thế Thày Địa lý treo giải thưởng rất lớn cho người nào có gan lặn xuống đó để dò xem.Họ Đinh nghe nói liền nhận lời ngay. Rồi Ông lặn xuống chỗ đó , lấy tay sờ quanh , thấy có một con vật như hình con ngựa đứng ở dưới đáy hầm. Ông bèn trở lên báo cho Thày Địa lý biết. Thày bảo Ông lặn xuống một lần nữa và đem theo một nắm cỏ non , nhử vào mồm ngựa xem nó thế nào. Ông lại cầm nắm cỏ xuống , đứng trước đầu ngựa để nhử , thấy nó há miệng ngoạm lấy nắm cỏ. Ông liền bơi lên báo cho Thày Địa lý biết , Thày gật đầu bảo : 
- Dưới đầm quả nhiên có ngôi Huyệt quý. 
Rồi Thầy đưa ra một số vàng bạc bảo với Ông rằng: 
- Nay hãy tạm thù lao cho một ít , sau này xin tặng thêm. Tôi cần trở về bản Quốc mấy tháng , rồi lại sang ngay , bấy giờ ta sẽ nói chuyện sau. 
Lúc đó tuy còn ít tuổi , nhưng Ông rất thông minh. Nghe bọn Khách nói chuyện với nhau , Ông hiểu ngay Huyệt ở mồm ngựa, không còn hồ nghi gì nữa.Đợi cho họ đi rồi , Ông đem gói xương ở gác bếp xuống , lấy cỏ bọc xung quanh , rồi lặn xuống để vào mồm ngựa , ngựa bèn ăn hết ngay. 
Tứ đó , nhiều người tòng phục Ông và tôn Ông làm Trại trưởng. Khi Ông ở sách Đào úc , một hôm đánh nhau với chú , Ông chạy qua đầm , cầu gãy , Ông ngã xuống đầm. Chú Ông chạy tới lấy dáo đâm Ông , tự nhiên có hai con Rồng vàng bay xuống che chở cho Ông. Chú sợ hãi lùi lại. Vì thế Nhân dân các nơi quy phục Ông càng nhiều hơn. 
Cách mấy năm sau , Thày Địa lý đem xương bố ở Trung Quốc sang , tìm tới chỗ đầm ấy để mai táng , Nghe nói Đinh Bộ Lĩnh đã trở thành bậc anh tài cái thế , thủ hạ có hơn 1.000 người , Thày Địa lý biết ngay là họ Đinh đã táng Huyệt đó rồi. Thầy uổng phí bao nhiêu công sức , Thày căm tức lắm . Bèn đến bảo với Ông rằng : 
- Nghe nói Ông đã được đất quý. Cái Huyệt ấy tuy đẹp , nhưng ngựa không có gươm thì không được tốt. Nay tôi tặng cho một thanh gươm , Ông đem xuống treo vào cổ ngựa , như vậy thì Ông sẽ dọc ngang Trời Đất , đánh đâu thắng đó. 
Đinh Bộ Lĩnh tin lời Thày Địa lý bèn lặn xuống chỗ ngựa Thần , lấy tay sờ cổ ngựa và để gươm vào đó rồi bơi lên. 
Từ đó Ông đánh đâu được đó , gọi là Vạn Thắng Vương.Ông dẹp được 12 Xứ quân , thống nhất dư đồ , lên làm Vua , hiệu là ĐINH TIÊN HOÀNG. Ông ở ngôi 12 năm thì bị tên hầu cận là Đỗ Thích ám sát , con cả là Đinh Liễn cũng bị giết. Vì Thày Địa lý dùng kế đánh lừa để gươm vào đầu ngựa , nên hai bố con Ông mới như thế 
TRUYỆN HỌ VŨ XÃ TRUNG HÀNH . 
( Trung hành Vũ tộc ký ) 



Tại xã Trung hành - Huyện An dương có một người họ Vũ , nhà nghèo nhưng hay làm việc thiện . 
Bấy giờ trong làng thường có một người hay nhờ thày Địa lý xem đất .Sau khi tìm được một ngôi đất đẹp và đem mộ Tổ đến táng . Một đêm , người ấy nằm mơ thấy một vị Thần nhân đến bảo rằng : 
-Ta cai quản địa phương này . Ngươi là ai mà dám đem mộ đến táng ở đất của ta . Ngươi phải di mộ đi nời khác ngay , nếu không sẽ có tai vạ . 
Người ấy còn trù trừ chưa quyết , thì cả nhà đau ốm , trong họ không yên . Lại nằm mơ thấy Thần nhân đến bảo : 
- Nhà ngươi ít Phúc , không đương nổi cái Huyệt ấy . Ta giữ cái Huyệt cho họ Vũ . Ngươi nên nhường cho Họ đó , thì con cháu ngươi sau này sẽ được họ ấy báo đáp . 
Người ấy theo lời Thần bảo , đến nói với người nhà họ Vũ rằng : 
-Tôi có một ngôi đất tốt . xin nhường cho ông . Sau này nhà ông phát đạt , thì đừng quên con cháu tôi . 
Người họ Vũ xin vâng , rồi đem mộ phần tiên nhân táng vào ngôi đất ấy . Về sau , họ Vũ hưng thịnh , sinh ra nhiều người tài nghệ và vũ dũng hơn người .Trong khoảng Trung hưng , họ này có công dẫn đường diệt Mạc , được phong công thần . Đến nay , con cháu được kế tiếp nhau nắm giữ quyền binh , tước lộc đương thịnh . Bấy giờ có câu tục ngữ : " An Dương trung hành , Kim Thành Quỳnh Khê " - Ý nói làng Trung Hành thuộc Huyện An Dương và làng Quỳnh Khê thuộc Huyện Kim Thành là những làng đời nào cũng có nhiều quan chức . 
CHUYỆN MỘ TỔ Ở VỊNH KIỀU PHỤ CHÉP TRUYỆN HIỂN TÍCH . 

Thượng thư ( triều Mạc ) Nguyễn Văn Huy là người xã Vịnh Kiều , Huyện Đông Ngạn . 
Nguyễn Phúc Ngộ là ông nội , bình sinh hay làm việc thiện . Ông ngụ cư ở xã Đông Lâu , Huyện Yên Phong , làm nghề nấu rượu . Bên cạnh nhà ông có một cây Bồ đề cổ thụ bị bão làm đổ . Ông mua cây ấy làm củi đun . Khi đào đến rễ cây , thấy ở dưới có một cái Huyệt chôn bạc ước độ đôi ba thùng . Ông đem số bạc ấy về nhà cất dâu , rồi chuyển nhà đi nơi khác . Hai ba năm sau , một người khách Trung quốc đến lấy bạc , nhưng không thấy bạc đâu mà chỉ thấy một cái Huyệt không . Người Khách hỏi những người lân cận , biết ông đã được số bạc ấy , bèn tìm đến nhà ông đưa ra một bản sấm cũ và nói rằng : 
-Tôi vì gia sản của tiên nhân lặn lội đến đây , không hay Trời đã cho ông rồi . Nay tôi định trở về nước , xin ông tư cấp cho một ít lộ phí , thì tôi được đội ơn ông nhiều lắm . 
Nguyên từ khi được số bạc ây , ông đem về cất đi , không biết là bao nhiêu . Đến đây , ông xem bản sấm thì thấy số bạc ông được đúng như số bạc đã ghi ở trong bản sấm , không sai một ly . Ông bèn khoản đãi người Khách và bảo rằng : 
- Số bạc này chính là tôi bắt được , nhưng cứ để nguyên cất đi , không hề lấy một chút nào ra tiêu dùng . Số bạc ấy , vốn là di sản của nhà ông , thì tôi xin hoàn lại ông tất cả . 
Người Khách từ chối mà rằng : 
- Số bạc ấy ltuy là di sản của nhà tôi , nhưng nay ông đước thì là của ông . nếu ông có cho , thì tôi chỉ xin đủ tiền ăn đường về nước thôi . Còn việc ông hoàn cả , thì tôi không dám tuân mệnh . 
Ông nhất định không nghe . Người Khách lại nói : 
- Ông đã có lòng thành thì tôi xin lĩnh một nửa . 
Ông nói : 
- Tôi đây há không quý tiền bạc hay sao ? Nhưng số bạc này không phải của nhà tôi . Trời chỉ sai tôi giữ cho ông , cho nên tôi phải cất đi để đợi ông . Vậy ông đừng từ chối nữa . 
Người Khách thấy ông kiên quyết như thế không dám trái ý , bèn lĩnh bạc ra về . Sau khi về nước , người Khách thường đem viếc ấy kể cho mọi người cùng nghe . Một thày Địa lý nghe được câu chuyện , nói rằng : 
- Ít có người tốt bụng như thế , nay ta già rồi , giá ta còn trẻ thế nào ta cũng sang An Nam tìm cho nhà ấy một ngôi đất tốt để đền ơn . 
Người Khách khẩn khoản nhờ thầy giúp . Thầy Địa lý nói : 
- Ta có hai người học trò có thể sai đi được . 
Người Khách cùng hai người học trò đó sang An Nam . Bọn họ đến xã Vịnh Kiều hỏi thăm thì Phúc Ngộ đã mất từ năm trước rồi . Người Khách sắm một lễ phúng đem đến nhà ông cúng tế . Cúng xong ra đi , không biết đi đâu . 
Hơn hai tháng sau , người Khách lại đến bảo con ông rằng : 
- Tôi chịu ân đức của Tiên công , không biết lấy gì báo đáp . nay tôi đem hai thày Địa lý giỏi sang tìm cho ngài một ngôi đất tốt để tạ ơn . Một ngôi kiểu " quần sơn củng phục " ( Các núi chầu lại ) , có thể làm một đời Đế Vương . Một ngôi kiểu " Cáo trục hoa khai " ( Phong tước nở hoa ) , có thể làm được một đời Phò mã . Trong hai ngôi ấy , ông thích ngôi nào ? 
Con ông trả lời rằng : 
- Nhà tôi ở chỗ thôn quê bỉ lậu , dám đâu hy vọng những sự lớn lao ấy . Tôi chỉ mong có được một ngôi đất đời nào trong nhà cũng có văn nho mà thôi . 
Hai thày Địa lý nói rằng : 
- Nếu anh muốn như thế , thì ở làng ta đây đã có sẵn ngôi đất đó rồi , không phải đi tìm ở đâu nữa . 
Xét ngôi đất ấy , Long mạch khởi từ xã Cẩm Chương đi lại , đến đầu làng Vĩnh Kiều thi nhô lên thành hai mô đất . Một mô hơi to và bằng phẳng . Một mô hơi bé và hơi méo lệch . Người học trò thứ nhất bảo Huyệt mộ ở mô to . Người học trò thứ hai cho là không phải , anh ta bèn đến một cái vũng nước sâu ở phía trước mặt , nằm xuống ngắm trông một hồi lâu rồi đứng dậy mà nói rằng : Tôi đã nghiên cứu kỹ , đích thực Huyệt ở mộ bé . 
Hai người tranh luận mãi không quyết định được . Họ bèn vẽ bản đồ chỗ đất ấy , sai người đem về Trung quốc xin Sư phụ định đoạt . Sư phụ nói rằng: 
- Ngôi đất này là kiểu " Hoàng xà thính cáp " ( ( Rắn vàng nghe ngóe ) , khí ở tai . Hai mô đất tức là hai tai vậy . Mô lớn tất điếc . Mô bé hơi chéo có khí , Huyệt ở mô bé ấy . 

Con ông theo lời , mang hài cốt cha đi táng vào đó . Ngôi đất ngồi phương Cấn ( Đông Bắc ), trông hướng Khôn ( Tây Nam ) . Quả nhiên là đến đời Văn Huy là cháu đích tôn của Phúc Ngộ thì phát . 

Văn Huy đỗ Thám Hoa khoa Kỷ Sửu ( 1529 ) và làm quan đến Thượng Thư thì về trí sĩ . Văn Huy có 3 con trai . Con thứ nhất là Trọng Quýnh , đỗ Hoàng Giáp khoa Đinh Mùi ( 1547 ) niên hiệu Vĩnh Định đời nhà Mạc Phúc Nguyên , và cũng làm đến Thượng thư . Con thứ hai là Đạt Thiện , năm 18 tuổi đỗ Hoàng Giáp khoa Kỷ Mùi ( 1559 ) niên hiệu Quang Bảo đời Mạc Phúc Nguyên , và làm đế Thị Lang . Nguyễn danh Nho đỗ Tiến sĩ khoa Canh Tuất ( 1550 ) và làm Quan đến Đô khoa . Cháu đích tôn của Văn Huy là Giáo Phương đỗ Hội nguyên khoa Bính Tuất ( 1586 ) niên hiệu Đoan Thái đời mạc Hậu Hợp . Lúc vào thi đỗ Thám Hoa , bài đối sách được quan trường phê rằng :" Văn của Giáo Phương trôi chảy như nước sông Giang , sông Hán , càng viết càng hay ". 

Cháu 4 đời của văn Huy là Đức Vọng đỗ Hội Nguyên khoa Quý Sửu ( 1673 ) niên hiệu Dương Đức đời Lê Gia Tông , lại đỗ khoa Đông các và làm quan đến Đô đài . Công Viên , Đức Đôn và Quốc Ích kế tiếp đăng khoa đều là cháu chắt của Văn Huy . Tương truyền những người đỗ đại khoa , mặt đều hơi lệch , đó là do khí đất chung đúc tạo ra như thế . 

Lại nói đến chuyện Hiển Tích . Ông là con thứ của văn Huy , lúc trẻ đỗ Hương tiến , tính hay uống rượu , bỏ cả học hành , đi xung chức Tùy hiệu 73 xứ hải Dương . Một hôm ông đến bến tre gỗ ở sông Nhĩ Hà , mời bạn uống rượu và xuống sông tắm . Ông thấy trên bè tre có một tờ giấy viết chữ , bèn nhặt lên xem , thì là một bài phú cũ . Ông học thuộc lòng , thường khi uống rượu xong , gõ vào mâm mà hát . Khoa Ất Sửu kỳ đệ nhất , ông được bạn hữu giúp đỡ nên được đỗ . Đến kỳ đệ nhị , ông đem một bình rượu vào trường uống say rồi ngủ . Trời đã xế chiều , tự nhiên có một trận gió nổi lên , cát bụi bay mờ mịt . Ông đang ngủ , giật mình tỉnh dậy , ngó đầu ra xem , thấy mấy mảnh giấy có chữ bay đến trước mặt . Ông nhặt lên xem thì ra đó là một bài văn tứ lục . Hiển Tích mừng lắm nói : Thực là Trời cho ta . 

Rồi ông theo bài ấy viết vào quyển thi đem nộp . Kết quả đỗ kỳ ấy . Kỳ đệ tam là một bài phú , thì lại là bài phú Hiển Tích nhặt được ngày truớc trên sông Nhĩ , nên cũng lại được đỗ . Kỳ đệ tứ , vì ông bỏ học đã lâu nên chẳng làm được câu nào . Ông đem bài Lưu hầu ( Trương Lương ) làm bằng chữ Nôm ngày trước ra xử dụng , có câu nào quê mùa thì chữa lại cho tao nhã . Mỗi khi chữa được một câu, ông lại uống rượu ngâm nga . Thái quan thấy thế bảo ông rằng : Trời muộn rồi , mọi người làm bài đã được quá nủa rồi , sao tân Tiế sĩ còn để quyển trắng , mà lại uống rượu say sưa, hát xướng nghêu ngao làm vậy ? 

Ông say mèm đáp : Muốn viết thì viết , có khó gì . Rồi chép cả truyện ấy đem nộp . Một viên quan cũng hay làm Nôm, thấy lời văn thanh nhã , gặp những câu hay liền lấy bút khuyên , rồi đưa quyển ấy cho vị khảo quan khác xem và nói rằng : Quyển này không chỉ Viện sơ khảo của chúng ta được xem mà cần trình lên Viện Phúc khảo để hiến cho các vị ấy một trận cười . 

Viện Phúc khảo xem lại , cho đó là trò đùa rồi cả trường cười ầm lên . Tiếng cười lọt ra bên ngoài , Thái sát quan hỏi : Việc gì mà cười ? 

Các quan cứ thực sự trình bày . Chấm xong , các khảo quan đem những quyển đỗ về Hoàng thượng để ngài định đoạt . Hoàn thượng thấy đỗ ít quá , bèn sai bên Trung quan đến bảo các quan ấy lấy thêm . Các khảo quan nói với Trung quan rằng chỉ có từng ấy quyển là trúng cách , còn không tài nào lấy đựoc nữa .Trung quan tuân theo nộic chỉ , cố nài các quan nói thêm . các khảo quan nói rằng chỉ còn có một quyển Lưu Hầu , ngoài ra không còn quyển nào nữa . Trung quan trở về tâu Vua . Vua phán rằng Lưu Hầu không lấy thì lấy người nào ? Rồi truyền lệnh cho các khảo quan lấy thêm ông . Đến khi đem quyển về , Vua mới vỡ nhẽ , nhưng đã trót lấy đỗ rồi , nên phải giấu việc đó đi , không dám để lộ ra . 

Sau ông làm đến Thị lang Bộ Binh. Đến khi Triều ta trung hưng , ông ra đầu thú , được bổ làm chức Thừa tuyên sứ xứ Tuyên Quang lưu nhiệm . 

Xét từ khi có thi cử , những người được đỗ tất văn bài phải á . Nay Hiển Tích lấy chữ Nôm được đỗ , có lẽ là một việc ngoa truyền . Hoặc ỉa thời bấy giờ thi cử không có quy củ nên mới có sự lạ ấy . Nhưng qua đó , dễ nhận thấy , học là ở người , còn đỗ hỏng là do số phận . Về sau có một viên Giám sinh vào tỉnh thi đệ tứ trường , không làm được bài , mới viết những câu tạp chữ Nôm đem nộp . các quan khảo cho là vô hạnh , định truất cả Giám sinh , sau kêu van mãi mới được tha . Việc ấy để làm răn cho những kẻ hay bắt chước người không phải lối . 
Phong thủy của ngôi mộ của Danh Tướng Phạm Nhữ Tăng 

Nếu ai có dịp đi về Quảng Nam đến ngã ba Hương An (huyện Quế Sơn), theo Quốc Lộ 1A từ Nam đi ra Bắc qua khỏi ngã ba Hương An chừng 700 m có con đường làng rẽ về phía tay trái, di băng qua 1 cái làng, rồi qua 1 cánh đồng sẽ đến khu vực có lăng mộ của Danh Tướng Phạm Nhữ Tăng. 

Ngôi mộ tọa lạc trên một cái gò nhỏ, cao khoảng 2 m so với mặt ruộng, phía sau là một gò cao khoảng 20 m, phía sau nữa là căn cứ quân sự núi Quế. Phía trước ngôi mộ thuở xưa là 1 bàu nước nằm cách mộ chừng 10m gọi là Bàu Xanh. 

Tương truyền rằng Phạm Nhữ Tăng là cháu 4-5 đời của Phạm Ngũ Lão vốn là danh tướng của Triều nhà Lê trên đường vào Nam chinh phạt Chiêm Thành thắng lợi đã qua đời trên đường trở về, được vua Lê cho mai táng ở Núi Quế, Hương An. 

Không biết vô tình hay hữu ý mà ngôi mộ đã vào vị trí đắc địa. Có một thầy địa lý sau khi đến xem mộ đã phán rằng: 

"Bao giờ núi Quế hết cây, 
Bàu Xanh hết nước mộ này hết quan" 

Trong gia phả họ Phạm tại Hương An ghi rằng: 
"Mộ tổ Phạm Nhữ Tăng, huyệt Đơn Phụng Hàm Thư" 

Vài nét về phong thủy của huyệt Mộ: Long mạch núi Quế phát nguyên từ dãy núi Hòn Tàu cao 1200m, chạy qua địa phận xã Quế Hiệp, xuống xã Quế Mỹ đến khu vực Hương An xã Quế Phú thì gặp một con sông lớn là sông Rù Rì (dân địa phương còn gọi là sông Hương An) long đình khí chỉ kết nên huyệt Đơn Phụng Hàm Thư. Thế long mạch đi rất dài, qua nhiều ngọn đồi nhỏ, đến khi kết huyệt thì quay đầu nhìn về sông Hương An (sông Hương An ngày xưa khác với sông Hương An bây giờ đã đổi dòng), phía trước huyệt là một bàu nước (bàu Xanh)có nước đầy quanh năm trong vắt. 

Huyệt táng trên một gò đất nhỏ hình vuông, mỗi cạnh chừng 5-6m. Gò núi phía sau như con chim phượng chìa mỏ ra ngậm lấy gò đất hình vuông này nên gọi là huyệt Đơn Phụng Hàm Thư 
Mộ huyệt tọa Khôn hướng Cấn (kiêm Dần 3 phân), bàu Xanh cũng nằm phía hướng Cấn, nước sông Hương An chảy ôm vòng cách huyệt chừng hơn 100 m từ phải sang trái. 
từ lúc mộ táng đến nay cũng đã hơn 400 năm, dòng họ Phạm liên tục phát quan, tính ra được khoảng 20 đời có cả võ quan lẫn văn quan đều là quan lớn qua nhiều triều đại (người viết lúc được đọc qua gia phả họ Phạm thì còn nhỏ nên không thể nhớ hết để kể chi tiết được). 
Đến đầu thế kỷ 20, có Tiến sĩ Phạm Nhữ Thuật(*) làm quan trong triều đình nhà Nguyễn sinh được 2 trai 1 gái. Cô con gái về làm Dâu ở vùng Bình Đào, huyện Thăng Bình. Do vùng Bình Đào đất cát khô cằn, cô con gái về xin cha cho khơi một dòng nước từ sông Hương An dẫn về hướng Thăng Bình để làm thủy lợi. Ông Phạm Nhữ Thuật đồng ý. Sau khi khơi kênh nước mới, đến mùa nước lũ, nước khoét sâu lòng kênh tạo thành dòng nước chính làm nước sông Hương An đổi dòng, dòng sông không còn chảy ôm vòng qua trước mộ nước mà thay vào đó là nước bắt đầu chảy ngược từ trái sang phải cùng với dòng chính chảy về huyện Thăng Bình. Về phương diện thủy pháp đã không còn phù hợp với hướng huyệt nữa. 
Sau sự cố này, nước Bàu Xanh trở nên cạn khô sau đó bị bồi lấp dần. 
Tiến sĩ Phạm nhữ Thuật trở thành vị quan cuối cùng của dòng họ Phạm ở Hương An. 
Hai con trai của Phạm Nhữ Thuật, 1 người tham gia quân đội Khố xanh của Pháp lên đến cấp Đại úy thì bị chết trận, người còn lại chơi bời bán dần gia sản, cuối cùng về quê làm nghề cày cấy. 
Từ cầu Hương An đi ngược sông Rù rì lên chừng 2 KM đến địa phận xã Quế Cường có 1 ngọn núi nhỏ gọi là núi Chùa . Long mạch của núi Chùa xuất phát từ hướng Tây (1 chi long của Trường Sơn), chạy qua nhiều vùng của Quế Sơn, đến Núi Nhím, (phía Tây của núi Chùa độ chừng 1 KM) Sơn mạch chạy đến núi Chùa thì long ngoi lên ngoảnh đầu ra uống nước sông Rù rì (hay sông Ly Ly). Sông rù rì chảy đến đoạn núi Chùa thì dòng chảy uốn lượn rất hữu tình . Ngay miệng long nơi núi Chùa ngoảnh ra, dòng sông có 1 vực sâu gọi là vực Cơm . Vực cơm nước tụ , sâu thăm thẳm, trong xanh rất đẹp, ngày trước khi bị tàn phá những loại cá quí của sông Rù rì hay tụ về sống ở vực cơm (có lẽ cũng vì vây mà bị tàn phá). Vực Cơm nước tụ nhưng không dơ dáy, vì dòng nước sông nơi đây chảy ôm lấy vực Cơm bên bờ nam . 
Ngày trước trên núi Chùa có 1 ngôi chùa (vì vậy mà gọi núi chùa), cây cối xanh tươi, phong cảnh đẹp lắm . Sau chiến tranh, người ta làm đường kinh thủy lợi (kinh số 1) từ đập Cao Ngạn (Thăng Bình) chạy cắt ngang giữa núi Chùa và núi Nhím - Cắt ngang cổ rồng . Nơi núi Chùa ngỏanh ra sông cũng bị 1 đường kinh nhỏ hơn (kinh số 3) cắt ngang giữa núi Chùa và vực Cơm ( cắt ngang miệng rồng) . 
Long mạch bị băm nát, vùng này trở nên cằn cỗi, trên núi Chùa chỉ có những cây nhỏ khô cằn sống .ngôi chùa bị phá , không ai trông coi . Phía tay trái của miệng long , sông Rù rì sụt lỡ, chính quyền cho trồng cây để ngăn đất lỡ nhưng vẫn bị . Bờ sông đất lỡ ăn sâu vào đất liền . Người địa phương bây giờ gọi nơi này là Hố Lỡ . Những tảng đá lớn bằng phẳng bên vực Cơm bây giờ hầu như biến mất , những mỏm đá nhọn hoắt tua tủa mọc lên làm khúc sông này giống như 1 bãi chông . Sông rù rì bây giờ cạn nước , không còn như xưa nữa . 
Xã Quế Cường nằm giữa hai hộ long ,núi Chùa và núi Quế (anh ThiênViệt đã nói ở trên về núi quế) , hướng ra sông Rù rì . Tuy không phải là nơi phát lớn nhưng cũng đã từng là xóm làng trù phú (nên xưa gọi là Phú Cường) . 
Xã Bình Đào thuộc huyện Thăng Bình nằm ở sát biển có con sông Trường Giang chảy ngang, con sông này là sông tự nhiên. Phía trên Bình Đào về hướng Tây Bắc giáp với Quế Sơn có lẽ là Bình Sa hoặc Bình Minh, đây là vùng mà Thiên Việt muốn nói ở trên. 

Con sông Rù Rì rộng lớn ngay cầu Hương An xưa chính là con kênh thủy lợi nhỏ được cô con gái họ Phạm cho khơi, sau vì nước lũ mà chảy phá thành sông Hương An bây giờ. 
Còn sông Hương An (sông tự nhiên)thuở xưa: nếu đi từ huyện lỵ Quế Sơn đi xuống Hương An, gần đến Hương An (cách Hương An chừng chưa đến 1 km) thì có một cái cầu bắt qua 1 con rạch nước chảy từ bên trái chảy qua, đây chính là sông Rù rì ngày xưa nước chảy từ phải sang trái vòng xuống Mộc Bài rồi mới ôm vòng về Thăng Bình, nay nước đã đổi dòng nên chảy tuột xuống cầu Hương An, còn dòng sông sông cũ lâu ngày cạn và thu hẹp dần thành một con rạch nhỏ. 

Ngôi mộ của Danh tướng Phạm Nhữ Tăng thì có từ thời vua Lê Thánh Tông đi vào Nam chinh phục Chiêm Thành (Thiên Việt sẽ đi tìm các tài liệu lịch sữ như Việt Nam Sử Lược, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư để tra cứu lại niên hiệu. Trên mộ cũng có ghi thời gian táng tuy nhiên TV không ghi chép lại), kết phát được hơn 20 đời chỉ tàn cuộc vào thời nhà Nguyễn. 
Phong thủy của lăng mộ bà Đoàn Quý Phi 
Từ ngã ba Nam Phước (trên Quốc lộ 1 thuộc huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) đi về hướng Trà Kiệu, qua cầu Chìm đi lên chừng 1-2 km, có con đường rẽ trái vào chừng 1 km nữa là tới khu lăng mộ của Bà Đoàn Quý Phi nay là Di tích văn hóa của tỉnh Quảng Nam. 
Khu lăng mộ rộng chừng 1500 m vuông, xây dựng cầu kỳ nhưng không quy mô, ở giữa là ngôi mộ bằng đá, xung quanh mộ là một la thành, giữa la thành và mộ được tráng vôi rất cứng. 
Phụ mẫu sơn của huyệt mộ là một dãy núi lớn chạy song song với núi Hàm Rồng (Duy Xuyên), nằm sâu vào bên trong một chút, đỉnh cao nhất của núi ước chừng 300 m, khi lực vô cùng hùng hậu, hình thế núi nhấp nhô như rồng cuộn. Hướng núi chạy thẳng về hướng huyệt, trước khi kết huyệt khởi phục chừng 4-5 lần, trong quá trình khởi phục có hộ sơn đưa đón lúc thì quay qua trái, lúc quay qua phải trông rất đẹp. 
Đến vị trí kết huyệt, trước khi vào huyệt là một tiểu khởi nhỏ cao chừng 4-5 m triển kiên khai diện thành 1 cái oa có chiều rộng khoảng 1500m vuông, lăng mộ được xây trong cái oa này. 
Bên trái của huyệt mộ là một đồi cao chừng hơn 4 m nhưng không dài che chắn bên tay trái làm thanh long, bên phải của huyệt mộ là một đồi thấp cao chừng dưới 1 m nhưng kéo dài ra phía trước chừng 300m, hình thế cuộn khúc thò ra nhiều chân nhỏ ôm về phía huyệt. 
Nước sông Trà Kiệu chảy vòng từ bên trái sang phải, huyệt tọa Canh hướng Giáp kiêm Mão. 
Về tầm vóc phong thủy của huyệt mộ thì tuy không có long hổ chia làm nhiều tầng bao bọc nhưng khí lực của long gia cực kỳ hùng hậu, điểm huyệt lập hướng theo phương pháp Ngũ Quỹ vận Tài cục (Khôn thủy, Tân Long tọa Canh hướng Giáp) nên nếu phát có thể giàu sang tột bực, mà Đế vương chẳng qua là người giàu nhất thiên hạ mà thôi. 
Hiện nay lăng mộ đã được tu chỉnh lại, được công nhận di tích văn hoá của Tỉnh và được bảo vệ. 
Thêm thông tin về danh tướng Phạm nhữ Tăng 

Tóm lược Tiểu sử Phạm Nhữ Tăng (1422 - 1478) 
Bản tin nội tộc (Số 11/2005), 01-02-2005. 
| Chia sẻ |
THẢO LUẬN  
Chưa có thảo luận nào

Tin cùng loại cũ hơn