Ngựa trong văn hóa Phật giáo

Đăng ngày: 18/02/2014 19:39
Hàng nghìn năm trước tính theo Phật lịch, con ngựa đã trở thành con vật đầu tiên trong danh sách “lục súc”, tức 6 con vật thân thiết trong nhà. Cũng chính vì thế mà trong văn hóa Phật giáo, cụ thể là trong các kinh tạng có nhắc nhiều đến hình ảnh con ngựa để liên hệ đến con người. Nếu có loại ngựa hay, ngựa chứng thì tương tự con người cũng có người hay, người dở!

Thuở xa xưa của nhiều thế kỷ trước, khi mà những máy móc chưa ra đời thì con ngựa chính là phương tiện để di chuyển cũng như chuyên chở tiện lợi và nhanh nhẹn nhất. Không biết cụ thể con ngựa có từ khi nào, xuất xứ nơi đâu nhưng nếu xét riêng trong văn hóa Phật giáo thì ở hơn 25 thế kỷ trước, cụ thể là từ 624 năm trước Tây lịch, năm Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời, tại xứ Ấn Độ, Nepal thì con ngựa đã trở thành một con vật gần gũi.

Khi ấy, con ngựa cũng là con vật gắn liền với sự tích Thái tử Tất Đạt Đa trên đường xuất gia cầu đạo. Cụ thể đó là con ngựa có tên Kiền Trắc, hay còn gọi là ngựa Kiền (tên tiếng Phạn là Kanthaka) cùng người giữ ngựa Sa Nặc đã đưa Thái Tử Tất Đạt Đa vượt hoàng thành Ca Tỳ La Vệ để xuất gia ngay giữa một đêm trăng lạnh mùa xuân.

Sau khi chia tay Thái tử tại bờ sông Anoma thuộc Ấn Độ, ngựa Kiền Trắc phát bệnh rồi chết, sau đó tái sinh lên cõi Trời làm tiên nhân.

Sau hình ảnh ngựa Kiền thì trong các bộ tạng kinh, đức Phật Thích Ca có nhắc đến khoảng 2 lần nữa hình ảnh của con ngựa để liên hệ đến con người, làm bài học giáo huấn hàng đệ tử. Chẳng hạn như trong Tương Ưng Bộ kinh có bài kinh tên “Gậy thúc ngựa” chỉ về 4 loại ngựa hay, tương đương với bốn hạng người biết “giác ngộ”. Trong Luật Tạng kinh Vinaya Pikata thì có nhắc đến 8 loại ngựa chứng. Tám loại ngựa này cũng tương ứng với những tâm tánh xáo động và bất tịnh cần sửa đổi của con người.

Tranh Thái tử Tất Đạt Đa cắt tóc xuất gia bên bờ sông Anoma sau khi chia tay ngựa Kiền và Sa Nặc

Mới đây người viết bài được ngồi trò chuyện cùng Hòa thượng Thích Giác Toàn - Phó chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trụ trì Tịnh Xá Trung Tâm về các loại ngựa trong văn hóa Phật giáo. Hòa thượng nói rằng, bài kinh về 4 loại ngựa tốt là bài kinh mà ông đã nằm lòng từ thuở nhỏ mới xuất gia. Sau này, trên bước đường giảng pháp cho các hàng Phật tử tại gia, ông cũng nhiều lần giảng về bài kinh này cũng như hay trích bài kinh để lồng ghép vào các bài giảng khác để hướng dẫn con người thức tỉnh.

Cụ thể, 4 loại ngựa hay trong bài kinh “Gậy thúc ngựa” như sau: Thứ nhất, ngựa vừa chỉ thấy bóng roi đã chạy. Tương tự là hạng người khi nghe có người hoạn nạn cách đây trăm dặm thì liền tỉnh ngộ, sau đó tu tập và đạt kết quả. Họ ngộ ra rằng, cuộc sống là vô thường, người ta hoạn nạn, già, bệnh, mất thì có một ngày không xa mình cũng y như thế. Từ sự thấy biết vô thường đó, họ bắt đầu biết tỉnh thức trước các sự kiện xung quanh mình, họ bớt tham, sân, si, họ biết thu thúc đời mình chứ không lao theo tự ngã, dục lạc quá đà.

Hạng ngựa thứ 2 là không sợ bóng roi nhưng khi nhịp nhẹ roi trên lưng thì sợ mà chạy. Hạng người thứ 2 cũng vậy, tức khi nghe thấy có người hàng xóm mình hoạn nạn, ốm đau thì họ cũng giật mình thức tỉnh lo tu tâm tánh. Hạng người thứ 3 thì giống như hạng ngựa khi bị đánh đau trên lưng mới chịu chạy; đánh đau trên lưng tức là tới khi có người bà con thân thuộc trong gia đình, là ông bà cha mẹ, anh chị em mình gặp hoạn nạn, đau ốm thì họ mới giật mình tu dưỡng phục thiện.

Và hạng ngựa thứ 4 chính là ngựa chỉ chịu chạy khi bị gậy thúc đau đến thấu xương. Tương tự ở người, có người khi thấy người hoạn nạn ở xa trăm dặm thì thôi kệ, đến hàng xóm cũng xem là chuyện người khác không can đến mình. Thậm chí ngay cả khi đến những người bên cạnh, ông bà cha mẹ anh chị em, những người mà mình hằng ngày vui buồn cùng họ gặp hoạn nạn mà mình cũng không để tâm. Đợi đến khi chính bản thân đau, như ngựa bị roi gai đâm vào mình đau quằn quại thì mới hoảng hồn thức tỉnh!

Dẫu giới hạn thức tỉnh của các hạng người nêu trong bài kinh này có khác nhau nhưng họ đều được xếp vào nhóm những người hay, biết “giác ngộ” được chân lý cuộc sống, dẫu có khi là khá muộn màng. Nhưng thà muộn màng còn hơn có những người suốt cuộc đời của họ cứ lao theo những ham muốn tiền tài, danh vọng, xa hoa, phù phiếm cho riêng bản thân mình; để rồi đến ngày mọi thứ bỗng chốc hóa hư không!

Trái lại với 4 hạng người tốt trong bài kinh “Gậy thúc ngựa” trên thì kinh Phật cũng chia các hạng người xấu, khó trị thành 8, tương ứng với 8 hạng ngựa hung dữ. Đó là những con người khi được bạn bè nhắc nhở và phê bình, chỉ ra khuyết điểm của bản thân trong các cuộc họp thì tỏ thái độ bất mãn, chống đối thay vì ghi nhận và cố gắng sửa đổi. 8 loại ngựa ấy như sau:

1- Hạng người ưa cãi, chối bai bải được coi như giống con ngựa dữ bị tra hàm thiếc và roi mà vẫn hục hặc không chịu bước đi. 2 - Hạng người cứ đứng lầm lầm lì lì, không thèm ừ hữ, xác định xem khuyết điểm vừa nêu là đúng hay sai. Người này cũng giống như con ngựa dữ dựa vào hai bên gọng xe, không chịu đi. 3 - Hạng người thích trả đũa, bới móc trở lại lỗi lầm của người vừa chỉ tội mình. Đây là hạng người giống như con ngựa dữ ngã nhào xuống đất, xây xước đầu gối, làm gãy gọng xe.4 - Hạng người chê bai người cử tội mình, cho là ngu dốt, không xứng đáng để mắt tới. Họ như con ngựa dữ chạy thụt lui không chịu tiến bước.

5 - Hạng người đem lòng oán hận, thù vặt người chỉ lỗi mình. Đó là người như con ngựa chạy bừa, bất kể đường xấu, làm cho xe hư bánh gãy trục. 6 - Hạng người không sợ lầm lỗi, chẳng biết ngán ai, bỏ cuộc họp ra ngoài. Họ giống như con ngựa dữ bất kể nài và roi, ngậm hàm thiếc chạy càn mà vô phương cứu chữa. 7 - Hạng người tỏ thái độ giận dữ, khoa tay múa chân, la hét và thốt ra lời thô ác... Người đó giống như con ngựa dữ dựng ngược hai chân và sùi bọt mép. 8 - Hạng người bướng bỉnh không muốn ai đụng chạm đến mình, nên khi bị phê bình liền cởi áo vứt ra trước cuộc họp, lớn tiếng dọa từ bỏ đoàn thể... để vạ cho người xây dựng mình. Họ cũng giống như con ngựa dữ lồng lộn bỏ đi khi nài quất roi vì ngang bướng.

4. Có thế nói, 8 loại ngựa hung hăng này không mấy xa lạ, trái lại nó luôn hiện hữu đầy đủ, lấp ló đâu đó trong tâm thức của mỗi con người chúng ta, ít hay nhiều mà thôi. Không những thế, trong Phật giáo cũng có câu “Tâm viên ý mã”, tức chỉ tâm con người như con khỉ, luôn nhảy nhót; ý của người đời thì như con ngựa, thích chạy rong. Nếu không kiềm chế được “con khỉ”, “con ngựa” ấy trong tâm mình thì rất dễ sinh chuyện, cũng như khi con người mất bình tĩnh trong chốc lát đã có thể biến thành tai họa.

Nói đâu xa, hằng ngày trên các trang báo mạng xuất hiện đầy rẫy những tin tức về các vụ án mạng mà lắm khi nó chỉ xuất phát từ một mâu thuẫn rất nhỏ, thậm chí chỉ là một câu nói vô ý hay một cái liếc nhìn. Nguyên nhân chủ yếu của nó xuất phát từ sự mất bình tĩnh, thiếu kiểm soát bản thân mà ra cả. Trong Kinh Di Giáo có nói đến ý này rằng: “Cũng như ngựa dữ không cương, tức đưa người cưỡi đi thẳng xuống hố sâu”.

Trong cuộc sống hiện đại với bộn bề những lo toan về công việc mưu sinh, người ta, nhất là những người trẻ ngày càng có ít đi thời gian dành cho chính mình! Tâm ý họ hết mong cầu tương lai thì lại quay sang tiếc hoài quá khứ.

Nếu trong “năm Ngựa” này, mỗi người dành nhiều thời gian hơn để nghĩ về “con ngựa” ngay trong chính tâm ý của mình; để 4 con ngựa hay được phát huy và quan trọng nhất là phải nhốt được 8 con ngựa hoang đàng kia vào chuồng mà tra hàm thiếc. Khi làm được điều đó, mỗi người chúng ta sẽ có được niềm an lạc và hạnh phúc viên mãn cả đời chứ không riêng gì trong năm Giáp Ngọ 2014 này.

 

Trúc Vân

| Chia sẻ |
THẢO LUẬN  
Chưa có thảo luận nào

Tin cùng loại cũ hơn